Tru Sa
YÊN CƠ
Duyên ngộ giữa tôi và Thụy Khuê lạ lùng như một sự ngẫu nhiên được an bài sẵn, chỉ đợi ngày tháng chín muồi là lóe lên như sao băng. Sự hiểu biết của Thụy Khuê, với tôi bắt đầu từ năm 2 đại học, hồi đó tôi khá mù mờ về văn học Việt, ngoài hai cái tên nổi tiếng đến mức quen thuộc là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh thì tôi không đọc ai, đúng hơn là mấy ông thầy, mấy đứa đàn anh khóa trên chỉ nói về hai người đó với sự ngưỡng mộ tới cuồng tín. Tôi kén văn học Việt bởi sự khó chịu ăn vào máu thuở học sinh, suốt ngày phải đọc mớ văn học cách mạng mà vẫn phải cố khen, tán láo để lấy điểm cho bài thi, đợt thi vào khoa viết văn, tôi lại phải ca tụng Chí Phèo của Nam Cao dù tôi đọc truyện đó tới phát ngán, nói thẳng, đọc xong tuyển tập Nam Cao, tôi thấy tay nghề viết của ông chỉ ở mức trung bình khá, văn thô, trần trụi, tả thực nhưng ngôn ngữ chưa sắc, thiếu biến hóa, tầm nhìn vẫn mơ màng, thành ra hồi đi học tôi chỉ đọc phần văn học nước ngoài, cứ dính mắt vào văn học Việt là buồn ngủ, càng đọc càng chán. Hoặc không đọc chứ đã đọc tôi luôn chọn sách ngoại văn Châu Âu hoặc tiểu thuyết Nhật Bản thời Minh Trị, mãi đến khi tôi ngồi trong ký túc xá, thấy mấy đứa cùng lớp kháo nhau về Nguyễn Bình Phương, bảo là đọc chả hiểu gì, một đứa cùng lớp, hiện làm ở văn nghệ quân đội bảo rằng muốn hiểu Nguyễn Bình Phương thì đọc bài của Thụy Khuê. Tôi chỉ nghe thế rồi bỏ đó. Một năm sau, tôi mới lên mạng tìm trang Thụy Khuê nhưng không phải để xem bài giải mã Những Đứa Trẻ Chết Già, tôi gõ để tìm đọc lại bài Đỗ Hoàng Diệu Trong Không Gian Cổ Tích Huyền Ảo, cũng lạ, hai năm đầu tôi rất ngoan ngoãn, nghe lời thầy cô, kể từ lần cố sự chết hụt thì mọi thứ đảo lộn hết, tôi trở nên ngang tàng, không kính nể bất cứ ai rồi tự xóa bỏ mọi thứ mình được dạy và bắt đầu sự đọc từ tờ giấy trắng, rồi thì tôi đọc Bóng Đè và những truyện ngắn khác của Diệu, của những nhà văn không bao giờ được giảng dạy chính thức như Phạm Thị Hoài, Võ Phiến, Mai Thảo, Bùi Hoằng Vị, Trần Vũ...cách viết của Thụy Khuê khác hoàn toàn lối viết phê bình đương thời, thoạt đầu tôi hơi sốc vì cách dụng chữ mạnh, bạo, sắc, tư duy gắn kết tác phẩm vào đời sống lịch sử và chính trị. Khác với số người viết phê bình cùng thời, ngôn ngữ của Thụy Khuê rất biến ảo chứ không khô cứng, thiếu sức sống, dòng chữ “Tuyệt Mù” trong bài viết về Nguyễn Thị Thanh Bình tôi nhớ mãi. Cách triển khai, dẫn, nhập, kết trong một bài phê bình đều sắc sảo và thuyết phục ngược đọc phải đọc lại tác phẩm, mỗi câu chốt bài đều đắt giá như một dòng kết lửng trong tác phẩm.
Đọc hết phần phê bình tác phẩm, tôi đọc, nghe thêm bài đọc phê bình radio của Thụy Khuê về tác phẩm, bao gồm cả những cuộc phỏng vấn trực tiếp giữa người phê bình và tác giả. Qua phần radio được thâu trong mục mỗi tác giả tôi mới nghe bà biết thêm về Đỗ Hoàng Diệu. Suốt một thời gian dài, tôi toàn lên trang Thụy Khuê để tìm hiểu về văn học Việt thời Nhân Văn, Văn Học miền Nam và giai đoạn Đổi mới 1986, lắm lúc, tôi đeo head phone nghe bài phát thanh trên RFI bởi giọng đọc của Thụy Khuê ấm và truyền cảm, có độ ngân, độ vang, sự trầm bổng linh hoạt theo từng đoạn văn, nghe một lần rồi lâu lâu nghe lại, vẫn khoái. Trong quá trình đọc những bài viết của Thụy Khuê, tôi học được rất nhiều về cách đọc, cách nghĩ, cách tư duy, cách xuống dòng, đặt dấu câu lẫn sự tùy biến chữ trong mỗi văn cảnh, tỷ dụ như lần tôi đọc bài tựa Ngồi Hong Váy Ướt của Võ Thị Hảo đăng trên Hợp lưu, Thụy Khuê có viết về sự diễn giải tính huyền ảo trong văn học, qua lời Jean Paul Sarte, thích quá, tôi đọc làu đoạn đó rồi triển khai thành truyện ngắn Tiếng Chuông, in trong tập Những Bình Minh. Cố nhiên, sự học hỏi của tôi từ Thụy Khuê không đến từ một phút vỡ òa rồi lao đầu vào viết bất chấp ngày đêm mà chia nhỏ theo từng giai đoạn, trải rộng từ 2010 đến 2016, mỗi lần đọc lại, đọc thêm bài là một lần tôi vươn cao hơn hình bóng của mình, nói không ngoa, bài vở của Thụy Khuê là lý do tôi luôn cố gắng, rèn rũa mình thật cứng cáp, mong chờ một ngày không xa, lúc tay viết của tôi trưởng thành, đứng riêng một cõi sẽ gửi truyện cho người đàn bà có đôi mắt sâu, hên xui, tôi lại được lên bài trên trang Thụy Khuê, được đọc trực tuyến trên RFI, lâu lâu mở ra nghe truyện của mình như một thú vui tự hoan khả ố của kẻ tầm thường.
Cuộc đời tôi ngoặt ra một hướng khác kể từ lúc viết văn theo ý mình. Tôi viết, gửi đi, chẳng giao du với ai, chẳng nghe ai, viết nhiều hơn đọc, viết càng nhiều thì nghĩ, nhớ càng nhiều. Tôi tưởng mình ôm mộng nhà văn, ý niệm sai qué, bung bét theo thời gian, ối lần muốn dừng lại để tìm một công việc nhưng làm gì cũng hỏng, càng làm càng ẩu, sau cùng lại lết về bàn viết, cặm cụi ngày đêm, chỉ mong ngày nào đó sẽ đoạn đời trên bản thảo. Năm 2017, chị Đặng Thơ Thơ gửi mail cho tôi, bảo rằng có cô bạn người Nhật nói tiếng Việt rất sõi đang ở Việt Nam, nếu tôi rảnh thì gặp chị ấy. Tôi lưỡng lự mấy hôm rồi tạm đồng ý, gửi chị Thơ số điện thoại, nếu bạn chị liên lạc trước thì tôi cũng không ngại gì một buổi cafe. Mãi đến mùa rét thì tôi nhận được cuộc hẹn từ Aki Tanaka, sắp lịch, gặp ở café Đông Tây, tầng 2, gần đường Nguyễn Chí Thanh. Tôi đạp xe đến trước, chọn chỗ ngồi gần ban công, lúc sau Aki mới đến. Chuyện trò qua loa một hồi lâu, Aki hỏi tôi.
“Cô Thụy Khuê đang ở Việt Nam đấy, em gặp chưa?”
“Ủa, cô về nước rồi ạ, em tưởng cô thuộc diện cấm nhập cảnh.”
“Cô về mấy tháng rồi, em mà gặp được thì hay lắm.”
“Thôi, chả quen biết gì nhau, ngại lắm. Mà, chắc gì cô chịu tiếp em.”
“Cô dễ gần lắm!” Aki khẽ cười, vén lại mái tóc ngắn sát vai, chị kể rằng từng có một thời gian sang Pháp, ở nhà cô Thụy Khuê cả tháng. Là người Nhật gốc Tokyo nhưng Aki rất thích văn học Việt, chị mê tự lực văn đoàn, mê nhất là Khái Hưng và từng có gần chục năm sống trong Sài Gòn, có duyên tri ngộ với Dương Nghiễm Mậu, suốt ngày qua nhà ông nói chuyện, được xem tranh sơn mài của Mậu, Aki khoe tôi bức ảnh chị chụp chung với Mậu, màu ảnh rất tươi, chị mỉm cười, Mậu thì tủm tỉm, tròng kính cận đổi màu làm mờ đôi mắt ông, trông bí hiểm như bức ảnh ngồi dưới cái đồng hồ chết kim được lấy làm ảnh chân dung in trong cuốn Đôi Mắt Trên Trời. Trải nghiệm ngần đó năm ở Việt Nam nên Aki nói tiếng Việt rất thạo, dù đôi lần chữ cứ bị nghẹt, bị đứt hoặc chị cố diễn đạt ý nghĩ bằng một câu nói lái, chơi chữ của người Bắc nên lâu lâu tôi phải hỏi lại và lúc nói chuyện tôi cố không dùng khẩu ngữ đời thường. Aki ở nhà cô Khuê cả tháng, chú Luyện, chồng cô Khuê lo chuyện bếp núc, chị ngồi nghe cô giảng giải về văn học Việt từng thời kỳ. Gu đọc của tôi và Aki có chút tương đồng, đều mê Dazai, Akutagwa, không thích Haruki Murakami và những nhà văn Nhật đương thời, chỉ chênh nhau ở cách hiểu, hú hồn là cách hiểu của tôi về Dazai rất sát, chị bảo tôi cứ như một người Nhật, tôi cười, bảo rằng “Em là Yozo.” Nhắc đến Nhật Bản, Aki kể rằng đời sống ở Tokyo rất mệt mỏi, ngột ngặt, gánh nặng đời sống đè nặng trên vai, việc thi cử như một ác mộng, dân số già ngày càng nhiều, sức ép cuộc sống quá tải nên từng có một thời gian chị cắt đứt mọi liên lạc với xã hội, giấu mình trong phòng không chuyện trò với ai, phải rất lâu Aki mới cân bằng lại, thi vào đại học Tokyo ở tuổi 40.
“Khoa văn học Việt ở trường chị có một thầy rất thích Nguyễn Bình Phương, thầy giảng say mê nhưng chị đọc bản dịch tiếng Nhật thì không hiểu gì. Chị toàn phải gặp riêng thầy, hỏi cho hiểu.”
“Mấy tay viết quái quái như Bình Phương dịch rất khó, bởi bút pháp uyển chuyển, văn phong chấp chới, điên tự nhiên. Văn hóa Việt và Nhật khác nhau rất nhiều, trừ khi người dịch hiểu sâu cả hai vùng văn hóa may ra mới dịch thuận.”
“Cô Thụy Khuê cũng hay khuyên chị nên biết nhiều ngôn ngữ để đọc sách gốc.”
Tôi ngồi với Aki từ chiều giờ đến gần tối mới về. Lúc mới ngồi, tôi lục đưa tặng chị cuốn Trăng Tang, mới in trong năm, theo đúng ý chị Thơ Thơ. Tôi đi xe đạp còn Aki gọi grap nhưng chị chưa về ngay mà muốn đi bộ, dạo quanh phố một lúc, chị bảo Hà Nội lúc chiều tối rất đẹp, chẳng như Sài Gòn. “Chị bắt đầu giống người Việt rồi đấy.” Tôi cười rồi tót lê xe, đạp về nhưng chưa về ngay nhà mà vòng vèo khắp nơi, ngắm nghía phố phường vàng dần, gió se sắt lạnh, muốn quay lại ới Aki đi ăn ngô nướng, khoai nước,bóc trứng gà nướng ăn giữa trời lạnh nhưng tôi đã đi đến Quốc Tử Giám, chị cũng đi xa vào những con phố.
*
Tháng 11, tôi qua nhà xuất bản Hội Nhà Văn, đi thẳng lên phòng biên tập của Tạ Duy Anh, tôi đến đây chỉ để gặp Lão Tạ và chỉ chào hỏi, tiếp chuyện với lão, đầy người khó chịu vì sự ngông nghênh của tôi nhưng rồi cũng quen, bấm bụng rằng mày mà không thân với ông Tạ, ông đá đít từ cửa. Buồn chán mấy, cứ đến gặp Tạ Duy Anh là tôi hào hứng, cứ ngồi nghe Tạ bốc phét, cười ha hả là nhẹ cả lòng. Thấy tôi là Tạ Duy Anh pha trà, ông bảo tôi ra lấy nước đun, tôi than mệt, ốm, ngoài kia đông người, ngại lắm. “Cái ngữ anh thì cứ ngồi phóc đấy để người ta hầu.” Tạ Duy Anh cười híp mắt rồi làm đúng phận sự cha chú, tự lấy nước đun, đợi sôi, thả trà, rót mỗi người một chén.
“Bà Khuê về Việt Nam rồi đấy, đi chơi suốt. Bác đang biên tập, viết tựa cho cuốn phê bình văn học thế kỷ 20, cuối năm thì in.”
“Đợt vừa rồi cháu có gặp Aki Tanaka, chị ấy là học trò cô Khuê. Bác cho cháu xem bài tựa đi.” Nói rồi, tôi đứng dậy, đi ra bàn làm việc, tự mở máy. Tạ Duy Anh bảo “Để đấy bác tìm cho. Ông cứ sờ soạng, mất cái gì của tôi thì chết.” Trong lúc Tạ tìm bài thì tôi ngó nghiêng chồng bản thảo trên bàn, lôi ra đủ loại giấy tờ bản quyền, có đợt tôi thấy cuốn thơ về bác Hồ trên bàn, tôi cầm lên, cười rũ rượi, Tạ nhìn tôi bảo “Ông để vào chỗ cũ đi, bùa của tôi đấy.”
Gửi bài vào mail xong, Tạ Duy Anh rót trà, giục tôi ăn bánh, ông nói với tôi về cuốn phê bình của Thụy Khuê một cách hào hứng. Tạ bảo nền phê bình bây giờ thiếu những cuốn chỉn chu như cuốn của cô, người ta pháp học có khác, cách nhìn cách nghĩ khác hẳn mấy bố già cả đời lúi húi, vừa viết vừa sợ xem mình có trái ý Đảng, có hở miếng nào để đám phê bình nhào vào cắn xé. “Sắp tới, bác dự định sẽ làm một chuyến Nam Định cùng vợ chồng bà Khuê, nếu được, mà còn chỗ thì anh đi cùng.”
“Để cháu xem đã.”
“Nhớ để ý điện thoại đấy, có gì bác gọi. Liên lạc được với ông còn khó hơn lên trời.”
Lời hứa hẹn lấp lửng rồi Tạ Duy Anh xóa phắt đi với lý do xe hết chỗ, tôi cũng gật gù cho qua, chợt, một sáng lạnh cuối năm, tôi đang ngủ thì Tạ gọi, giục dậy rồi đi Nam Định, chú Luyện không đi nên tôi được vé vớt. Định từ chối bởi đang ốm, dị ứng ngứa điên lên nhưng nghĩ thế nào lại nhận lời, lâu lâu đi chơi xa cũng hay, biết đâu đi lại ngoài thiên nhiên lại mau khỏi bệnh. Sửa soạn xong, Tạ Duy Anh đánh xe đến gần nhà tôi, đợi mãi không thấy, gọi tứ tung, gọi cả cho mẹ tôi, nửa tiếng sau tôi mới xuống xe. Tạ lái xe nên tôi ngồi phía trên, cạnh ông, Thụy Khuê ngồi sau. Tôi nhìn Thụy Khuê, chào qua một cái cho xong rồi quay lên. Xe đi một quãng, dừng ở một quán ăn sáng. Lúc cả đám xuống xe, dưới trời sáng tôi mới quan sát kỹ Thụy Khuê. Hình ảnh của Thụy Khuê trong trí nhớ tôi là một người đàn bà đứng tuổi, mái tóc bồng chẻ ngôi uốn hai bên, lông mày kẻ đậm, sắc, cười nhếch miệng, mặc chiếc áo tím, tay đặt hai bên vai, đấy là qua bức ảnh tiểu sử trên wedsite của cô. Gặp mặt, đứng trước Thụy Khuê, tôi hơi ngạc nhiên vì vóc người thấp, nhỏ bé, có chút yếu ớt, run rẩy của tuổi 70, lối ăn mặc của bà đơn giản theo kiểu mặc cho ấm chứ không quan trọng sự điệu đà, làm dáng của người nổi tiếng. Trừ giọng nói nhỏ nhẹ, thuộc tính âm như nốt trầm trong bản nhạc cùng hàng lông mày đánh đậm thì mọi suy tưởng của tôi sai hết, vốn tôi tưởng một nhà phê bình đanh thép sẽ rất khó tính và kiêu ngạo, mặt mũi lúc nào cũng hằm hằm, chỉ tiếp chuyện với người tầm ngang với mình, luôn bắt bẻ từng câu từng chữ, ứng xử hòa đồng như một kịch sỹ, còn Thụy Khuê thì khác hẳn, tôi nhìn thấy sự khắt khe, tỉ mỉ của một người lão luyện đường đời nhưng vẫn hòa nhã, dễ gần như lời giới thiệu của Aki, bà hay cười, nụ cười rạng rỡ chứ không nhếch mép như bức ảnh trên tiểu sử nhân vật trên wikidepia, bởi mới gặp, chưa quen tôi luôn im lặng và Thụy Khuê đã chủ động hỏi chuyện tôi. Câu chuyện chấp chới nửa vời theo kiểu hỏi đáp, đã đọc, chưa đọc, sẽ đọc.
Đích đến của chuyến đi là viếng nhà tưởng niệm của Nam Cao, địa điểm thường niên mỗi năm một cuộc của Tạ Duy Anh. Thăm nhà, xem mộ, thắp hương xong, thừa thời gian thì đi dạo, lướt qua đền Trần, ăn trưa rồi về, lần đi nào Tạ Duy Anh cũng lên lịch trước. Quá lâu không về nước nên Thụy Khuê thích nhìn ngắm đường phố, bảo rằng thích nghe giọng Bắc, bà liếc nhìn phố xá, lâu lâu hỏi chuyện Tạ Duy Anh, đất nước thay đổi quá nhiều, đường xá thoáng đãng, đi đâu cũng tiện chứ không tù mù, lộn xộn toàn đất hoang, bùn lầy như những năm 54. Thành phố khang trang, đẹp, nhưng cây cối ít đi, hoang tiếng muông thú, con người ác hơn, không khí nghệ thuật tàn phai.
Quê gốc của Thụy Khuê ở Nam Định, chuyến đi này cũng là về quê nhưng theo một nẻo khác, đỡ phải gặp gỡ họ hàng. Tạ Duy Anh mê Nam Cao, đọc nghiền, ngưỡng mộ văn Nam Cao đến mức ảnh hưởng đôi phần trong cách viết, cách kể, cách tả trần, Thụy Khuê viết về Nam Cao theo vai trò phê bình, biên khảo, riêng tôi, chỉ có cảm tình với văn Nam Cao lúc học lớp 10 còn khi tiếp cận với văn hóa phương tây, hiểu được giá trị của Văn học miền Nam thì tôi chỉ ghi nhận ông như một di sản của lịch sử. Trước cố sự thời sinh viên, tôi là một kẻ luôn ngưỡng vọng, cả tin vào danh tiếng, cung kính người lớn tuổi, ai nói gì tôi đềm răm rắp, lúc đấy tôi rất cuồng tín vào trò xem bói, thắp hương, đốt vàng mã xin lộc, sau khi được người ta vớt lên mặt nước, tôi sống ngược hẳn với phần đời trước của mình, tôi vứt bỏ cuộc sống, muốn biến mình thành quỷ nhưng thiếu ác tâm để làm quỷ nên ngả ngớn giữa hai ranh giới như một linh hồn, chuyện viếng mộ Nam Cao cũng vậy, trong lúc Tạ Duy Anh lúi húi lấy hương, rượu trắng và cam Cao Bằng sắp lễ thì tôi đứng ngoài ngắm nghía ngôi mộ, đi lại khắp nơi trong vườn, bứt một đóa hoa dại, một chiếc lá, ngửi, rồi ném, dò dẫm hết khu nhà xem có mèo không.
“Một người như thế, đến lúc chết cũng chỉ thế này. Có hỏi người quanh đây, chả ai biết ông.” Tạ Duy Anh nói vậy. Tạ rót rượu, uống nửa chén rồi rót xuống mộ. Thụy Khuê và tôi chỉ nhấp môi rồi kính rượu vào đất.
Nhà tưởng niệm rất nhỏ, bày biện đơn giản, ngoài cỗ bàn thờ thì chỉ có dãy tủ kính bày các cuốn sách của Nam Cao, một ít ảnh chân dung, ảnh gia đình, vài vật dụng cổ lỗ thời bấy giờ. Tạ Duy Anh thảo cái mũ cao bồi xuống rồi đốt hương.
Cúi đầu thật thấp, uốn khom lưng thành một nét cong rạt trước bàn thờ, đôi thay thô ráp cầm nén hướng, bộ vét trắng cùng màu với cái trán cao, trồi ra như đá tảng, đấy là Tạ Duy Anh, ông cúi mình, vái mấy lần. Lão Tạ ngước xuống còn Thụy Khuê khấn nhẹ, mắt ngước lên nhìn khuôn mặt thiếu thời của Nam Cao trong khung ảnh thờ. Mắt Thụy Khuê buồn sâu, nỗi buồn như đắm như ngút vào cõi trầm tư vô tận nhưng vẫn hiu hắt chút tàn đỏ. Tạ cúi vái người xưa bằng sự thành kính như một sự tạ ơn giữa hai thế hệ, Thụy Khuê thì ngước vút lên, mặt đối mặt, mắt người sống chạm mắt người chết, tự vấn lòng điều gì đó từ Nam Cao, từ lịch sử hay ý niệm nào khác mà tôi không đọc được. Khoảnh đó tôi nhớ mãi, đến tận bây giờ, càng nhớ hơn sự nén mình, suýt bật cười khi nhìn hai người, hình ảnh đó như một khúc phim quay chậm.
Viếng xong nhà tưởng niệm, đi đền Trần, chụp tía lia cả lố ảnh, Tạ Duy Anh lái xe chở cả nhóm đến quán ăn, ông gọi các món Việt dành cho riêng cho thượng khách, vừa ăn, vừa chuyện trò, bổ cam Cao Bằng tráng miệng rồi mới đánh xe về Hà Nội. Trước lúc lên ăn trưa, tôi có đập cùi trỏ vào Tạ, lén lút mở balo vừa tầm nhìn ông, để lộ ra quyển sách. Tạ hiểu ý, nói nhỏ nhưng giọng cứ oang oang “Cô Khuê bận lắm, chắc gì đã đọc. Nhưng thôi, cứ tặng, cho có quà.”
Lúc về đến Hà Nội, xe dừng ở xóm Hạ Hồi, chỗ Thụy Khuê ở, Tạ mới sực nhớ nên quay xuống nhìn Khuê “Thằng này năm nay được lộc, in được một tập sách, muốn tặng chị. Cuốn đó chính em biên tập, viết tựa. Gớm, đọc riêng cho nó mà mất toi một ngày.” Như nghe theo tiếng gọi của Đảng, tôi lục ra cuốn Trăng Tang, mượn Tạ Duy Anh cái bút, ghi nhanh ký nhanh rồi đặt vào tay Thụy Khuê. Xong xuôi, Tạ mở cửa tiễn cô. Đợi cô đi khuất, Tạ quay sang tôi bảo “Thế là đúng ý anh rồi nhé, bây giờ chở anh về tận cửa là tôi xong nhiệm vụ.”
Thời gian trôi vèo, cuốn Phê Bình Văn Học Thế Kỷ 20 cũng lên kệ nhưng phải đợi xong hội thảo mới bày bán. Trước hôm ra mắt hai ngày, tôi bấm điện thoại thấy có tin nhắn của số lạ, ghi “Co Thuy Khue goi, nho nghe may.” Hình như số này mấy hôm rồi cũng gọi nhưng tôi không nghe. Tôi nhắn lại mấy dòng, tin nhắn gửi mấy giây, số lạ gọi ngược cho tôi, lần này tôi nghe máy, đúng giọng của Thụy Khuê trên RFI ngày nào.
“Cô ThụyKhuê đây. Em có còn tập truyện nào khác ngoài Trăng Tang không, gửi cho cô, có sách thì càng tốt, không thì em gửi vào mail cho cô nhé.”
“Em còn một cuốn nhỏ, đầu tay, in cùng năm với Trăng Tang, hôm nào rảnh, em qua nhà cô, gửi luôn.”
“Mai nhé. Ngày kia cô phải ra mắt sách, hôm sau thì về Pháp luôn.”
Xóm Hạ Hồi gần ngay nhà tôi, đi một lèo, dăm phút là đến nhưng vòng vèo nhiều ngõ ngách, đường đi rối tung như lối vào phố cổ. Trí nhớ của tôi vốn mỏng manh, rời rạc, sểnh ra là đứt tung, mù mịt như bị lẫn, dù Thụy Khuê đã chỉ dẫn tôi các lối rẽ nhưng tôi vẫn sa vào nẻo khác, phải mất mấy vòng xe, đi hết từng con ngách dẫn ra đường lớn tôi mới tìm đúng địa chỉ. Một khách sạn nhỏ, hơi chật chội so với dãy cao tầng, nhà hàng bên cạnh, lại sát sạt với xóm dân cư bình dân kiểu tập thể thời bao cấp. Lên tới nơi, gõ cửa một lúc, tôi thấy một ông chú tóc trắng, mặt mũi hiền lành ra mở cửa, tôi tưởng nhầm phòng nhưng ông bảo cô đang ở trong, bận chút việc, té ra đây là chồng Thụy Khuê, người nhường tôi tấm vé đi Nam Định. Trong lúc đợi Thụy Khuê nói chuyện điện thoại, tôi ngó nghiêng gian phòng, nhìn thấy cuốn Trăng Tang trên ghế sofa. Mở sách thì thấy dấu gấp ở truyện thứ 3, lật phần mục lục thấy mấy dấu khoanh tròn bằng bút chì, chắc để đánh dấu chỗ hay, dở, hồi mới viết tôi cũng hay làm thế với bản thảo của mình. Chú Luyện lấy ít bánh đậu xanh, kể chuyến về nước này hai vợ chồng cũng đi được nhiều nơi, gặp lại người thân, bạn bè lâu năm, chú bảo các chuyện hội thảo, tọa đàm ở ngoài Bắc yếu hơn trong Nam. Lúc Thụy Khuê xong việc, ra tiếp tôi thì chú Luyện đi vào, hỏi xem tôi có dùng trà, café gì không, tôi cảm ơn và từ chối bởi chỉ ngồi một lúc rồi phải về.
“Cô mới xem cuốn truyện của em, thấy lạ, được lắm nên muốn đọc thêm. Cô phải xin Tạ Duy Anh số của em mà gọi mãi mới được.”
Tôi gật gù, cười xòa rồi lục túi, lấy ra cuốn Những Bình Minh cùng tập bản thảo không tên, đặt lên bàn. “Đây là quyển đầu tay, xuất hiện trước nhưng in sau. Còn một cuốn nữa, tên Ảo Giác Mù thì em không có, em sẽ gửi vào mail khi cô về Pháp.”
“Cô sẽ xem dần.” Nói vậy, Thụy Khuê cầm sách, nhìn qua bìa rồi lật từng trang, lướt nhanh, nhìn nhanh, đôi lúc dừng ở một trang sách ngẫu nhiên, chăm chú đọc rồi lật qua, lướt một lèo mới gấp lại đặt trên bàn. Khác với lúc ngồi cùng những người khác, gặp Thụy Khuê tôi nói rất nhiều, đủ thứ chuyện. Kể về thời gian đọc, viết hồi sinh viên qua việc tham khảo bài vở trên trang Thụy Khuê, chút chuyện vãn về vận may kể từ khi quen biết Tạ Duy Anh, kể về Aki Tanaka. Thụy Khuê lặng, nghe mỗi lần tôi nói, đợi lời đi tận thì mới dẫn chuyện. Tôi ngỏ ý muốn mượn cô cuốn Phê Bình Văn Học xem qua, cô gật ừ, rồi vào phòng lấy sách. Phải đến hôm ra mắt sách mới bày bán, cuốn trong tay Thụy Khuê là sách biếu, chỉ có một cuốn. Tôi thích thú cầm, đọc tứ tung từng trang, sách dày 583, in khổ to, cầm rất nặng nên tôi phải đặt xuống bàn mà dò đọc, dáng vẻ tôi cúi gù như tra từ điển.
“Cô có đúng một cuốn, tặng em luôn nhé!” Thụy Khuê mỉm cười. Tôi gật liền, Thụy Khuê lấy bút ra ký, ngày 1/1/2018, sách chưa xuất kho, tôi là người đầu tiên có sách kèm chữ ký, tôi coi đó như món quà lộc đầu năm mới. Ngồi vui một lúc tôi xin về sớm. Nói là sớm và chỉ gặp một lúc rồi về nhưng cuộc gặp cũng ngoắc mất 2 tiếng đồng hồ. Hôm hội thảo tôi vẫn ốm, muốn bỏ rồi xem lại video trên fanpage, đứa anh hối tôi đi nên tôi cũng đành, thỉnh thoảng tôi cũng nên chiều đàn anh như cách gã thường ưu tiên tôi. Phòng hội thảo hôm đó đông nghịt người, toàn các bô lão máu mặt, hai đứa tôi có thấy Thụy Khuê nhưng vì đông khách quá, đủ các loại người nên chả chuyện trò được gì, lúc tôi chèo lên tầng trên, nhường ghế trống cho Nguyễn Huy Thiệp, bà ngước lên thấy người quen nên vẫy tay, cười, tôi cố vẫy lại nhưng lại chỉa hai ngón tay như ra kéo. Tôi cố nán lại đến cuối buổi, đợi Thụy Khuê ký hết sách, chào một lời cuối rồi mới về. Hôm đấy mưa, lạnh, không khí rét mướt như mưa xuân.
Mấy tháng sau, Thụy Khuê gửi tôi mấy câu hỏi, dò xét gia thế, là độc đinh hay anh trai, chị gái, từng đọc gì, tôi tưởng lại sắp phải trả lời phỏng vấn cho chuyên đề nào đó trên tạp chí Da Màu nên trả lời rất nhanh, chợt, một ngày kia, Thụy Khuê gửi tôi bài Thế Giới Trong Bao, bà viết về hai tập truyện và một bản thảo tôi gửi tặng. Ngớ người, tôi mở xem ngay. Được một người tiếng tăm viết riêng một bài dài, đáng lẽ tôi phải mừng vui, hoắng lên nhưng trong quá trình đọc, tôi có trao đổi thêm đôi chỗ Thụy Khuê trích dẫn thiếu chữ, thiếu từ hoặc trao đổi ý hiểu của tôi với cách hiểu của cô, cách hành xử ngông không biết trên dưới này của tôi đã khiến nhiều tiền bối khó chịu, thù ghét đến cạch mặt, riêng Thụy Khuê thì nghe hết, sửa chỗ dẫn thiếu, viết thêm, Thế Giới Trong Bao dài thêm sau mỗi cuộc trao đổi. Đắc chí vì tự dưng có một người chịu lắng nghe, chia sẻ với mình về nghệ thuật nên mỗi khi viết được truyện mới liền gửi ngay cho Thụy Khuê. Truyện mới, truyện cũ, thậm chí là những suy nghĩ của tôi sau khi đọc Ngọn Đăng Mù của Mai Thảo, Kinh Cầu Nguyện của Dương Nghiễm Mậu, cảm tưởng khi mở nghe Thái Thanh hát nhạc Văn Cao trong một ngày thu buồn đầy lá rơi…tôi đều viết, gửi cho Thụy Khuê. Sau chuyến đi Nam Định, hai cô cháu luôn thư từ với nhau qua mail, cho đến bây giờ. Gmail vốn trống trải, rỗng hoác không sinh khí được lấp đầy, cứ dày lên, toàn thư của Thụy Khuê và tôi.
*
Thụy Khuê là người Bắc, nguyên quán Hải Hậu, Nam Định, 1954 theo gia đình vào Nam, 1962 sang Pháp du học, ở lại Pháp cho đến bây giờ. Sống ở đất Pháp, Thụy Khuê vẫn là một người Việt thuần khiết, luôn nặng lòng với quê hương, từ cách tư duy trọng hoài niệm đậm chất Á Đông cho đến mối quan tâm luôn hướng về quê hương. Bạn bè tốt của Thụy Khuê phần lớn là người Việt, không phân chế độ cũ, mới, miễn là tử tế, tài năng là có thể bầu bạn. Khác với lớp người thuyền nhân, tạo lập thành dòng văn học Hải Ngoại, Thụy Khuê không tín cầu viết cho hả máu nóng, máu uất, sẵn sàng cạch mặt bạn nếu người đó qua lại với phe cờ đỏ, rất nhiều người khó chịu khi ai đó in sách trong nước, coi đó là sự phản bội, thỏa hiệp với chính quyền, nhưng rồi, thời gian trôi đi, ai cực đoan vẫn cực đoan, ai muốn hòa nhập với cộng đồng văn nghệ trong nước vẫn về, lịch sử đã định thì không thể thay đổi, chỉ đành chấp nhận, miễn là đừng cố gò mình rồi quỵ gối, làm tôi mọi cho chợ văn tuyên giáo. Thụy Khuê không viết sử, không chép sử, bà làm biên khảo, luôn góp nhặt đủ loại tư liệu thông qua các nhân chứng sống của mỗi thời đại, tài liệu lấy được lưu trữ, bảo quản, góp thành một thư viện dùng để khảo cứu vậy nên đọc Thụy Khuê dễ bị ngộp bởi lượng tư liệu, trích dẫn quá kỹ lưỡng tới mức phải để một mục ghi chú riêng. Cầm bút ở tuổi 44, thường thì ở độ tuổi này mỗi người viết đã đi nửa chặng đường, in ấn, xuất bản đủ loại sách nhưng Thụy Khuê bén duyên vào ngành viết quá trễ. Trễ nhưng chưa muộn, bởi mới đầu bà viết văn nhưng nhìn lại tình hình học thuật của đất nước, bà thấy nước Việt không thiếu nhà văn, nhà thơ hay trong khi mảng phê bình còn quá yếu, sau cùng, Thụy Khuê chọn viết phê bình, con đường cam go, khó khăn và nhiều áp lực nhất trong nghề viết. Hơn 30 năm cầm bút, Thụy Khuê viết được một lượng sách kha khá với đủ kích cỡ, trọng lượng mỏng, dày như Cấu Trúc Thơ, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, Họa Trường Lê Bá Đảng, Phê Bình Văn Học Thế Kỷ 20, Vua Gia Long và người Pháp, mới nhất là Ấn Tượng Hoàng Hôn, viết về tranh của Lê Thị Lựu. Tôi chưa đọc hết sách của Thụy Khuê và đọc rất ít sách về phê bình nên không muốn bình phẩm giá trị hay dở của bất cứ người viết phê bình nào nhưng trong vai trò một người viết văn bẩm sinh, tôi thấy bà có sự đóng góp rất lớn cho nền học thuật đương đại, khá nhiều bài viết của bà không được lòng số đông và một số ít bài phê bình mang tính chất tự nghiệm, tự sáng thông qua đời sống xã hội và từ trường đọc của riêng chứ không phải sự trúng phóc tuyệt đối nhưng đó mới là cái hay, cái mới, cái thiếu và cần học hỏi của phần lớn người Việt. Nghệ thuật không có đỉnh cao tuyệt đối, ngọn núi nghệ thuật được xây cao bởi nhiều thế hệ nhà văn, học giả, thành tựu trong số phận mỗi người là một tầng đá chứ không phải cả tòa núi, sự phát triển của nhà phê bình phụ thuộc vào tác phẩm, họ cố chì chiết bén sâu vào tác phẩm, cố đào, cố xới, lật tung tất thảy, cố tìm ra mặt thật của tác phẩm, bình văn tùy theo giá trị và trọng lượng của tác phẩm, nhiều người chỉ thích Phê chứ không thích Bình, lấy lối Phê văn, Phê người để tự tôn vinh mình bằng cách triệt hạ người khác theo cách hàng ngàn giáo viên cổ hủ, tư duy theo giáo án trường học luôn thẳng tay với những học sinh cá tính, nghĩ chệch định hướng bề trên.
Để hiểu một nhà văn thì không thể chỉ đọc một hai đầu sách mà phải đọc toàn bộ sự nghiệp viết, tìm hiểu bút pháp, khuynh hướng tư tưởng, nhưng đấy là đối với những nhà văn thông thường, những thợ viết chuyên nghiệp, viết bằng sự chăm chỉ, miệt mài, sống đã rồi mới viết còn đối với các nhà văn thiên tính thì chỉ đọc thôi là không đủ, nói trắng ra là không có một nhà phê bình nào có thể hiểu được những nhà văn sinh ra để sáng tạo như Kafka, Edgar Poe, Sadegh Hedayat, Csath Geza, Đinh Hùng, Trần Dần, thậm chí là nhạc của Trịnh Công Sơn. Lớp người này không thể hiểu tác phẩm theo cách hiểu đơn thuần của tri thức, tại sao vậy, trước hết, tôi xin thẳng thắn mà diễn giải suy nghĩ của mình về thứ gọi là lý luận phê bình, đây là quan điểm của một người viết văn chứ không phải một học giả chất trong mình chín tầng thư viện. Lý luận phê bình cũng giống như lý thuyết nghiên cứu khoa học về đời sống và cơ thể người, lý luận phê bình chỉ là kiến thức, sự hiểu biết, là tri thức, vai trò của người viết phê bình là dùng sự hiểu biết dày dặn để khám phá nghệ thuật, tìm ra chỗ hay, chỗ dở, qua đó định danh lại tác phẩm vào chỗ đứng xứng đáng. Ngành phê bình cung cấp kiến thức về văn chương, bóc tách, giải mã nghệ thuật thành tư liệu đọc, viết, nôm na là phê bình giúp chúng ta hiểu được bị ốm là do cơ thể mất đề kháng chứ không phải ma làm. Người viết về Kafka thì rất nhiều nhưng không chắc cách hiểu của họ là cách hiểu của nhà văn, thậm chí đối với những truyện ngắn nửa trang, được viết ra như diễn giải lại giấc mơ, sự tưởng tượng, chúng giống như sự ghi chép giấc mơ theo hướng văn chương chứ chẳng như sự ca ngợi thái quá của giới nghiên cứu phê bình trên thế giới, cứ dựa vào Lâu Đài, Vụ Án, Hóa Thân rồi quả quyết Kafka viết gì cũng lớn. Thực sự thì, Kafka không phải nhà văn chuyên nghiệp, sáng tạo là số phận của Kafka, thậm chí Kafka bị số phận an bài mà cứ tưởng mình được lựa chọn. Không khí độc tài là khí hậu trực hữu trong thời Kafka nhưng đấy chỉ là sự ảnh hưởng tương đối, vấn đề là áp lực đầy quyền uy của người cha to lớn đầy quyền thế trong gia đình Do Thái, Kafka sợ cha nhưng cũng muốn có được tình thương của cha, lòng tin chờ vô vọng bị chôn sâu, nén thành cảm xúc tiêu cực, biến tướng thành thú vui xác thịt, lấy tình dục để thỏa mãn tinh thần, rồi khi viết. Vốn là người đa cảm và mẫn cảm thái quá với mọi thứ xung quanh, ông nghĩ ra những điều không giống ai, đi cho tận cõi nghĩ, khai phá hết tiềm năng và đạt tới sự tiên tri bằng cái chết của chính mình. Nhà văn là kẻ hay nghĩ và hư cấu hóa những điều mình trải qua, muốn biết về tác phẩm phải làu qua cuộc đời nhưng thế chưa đủ, cần phải thấu tường những cố sự làm nên cá tính và tư tưởng của nhà văn, thông suốt rồi còn cần phải hiểu tác giả, tác phẩm bằng cách ướm mình vào vị trí của người đó, có vậy, may ra mới chạm được đến tầng đáy của một con người. Nhạc Trịnh mang nhiều hình ảnh của đời sống nhưng không phác lại cuộc sống mà biến đời thường thành tiến cảnh nghệ thuật. Rất khó để giải nghĩa câu chữ của Trịnh theo quy chuẩn thông thường, thậm chí càng diễn giải càng sai, hỏng hết ngôn ngữ, với tôi, nhạc Trịnh là sự hoạt biến của ngôn ngữ, phức hợp thành một thứ Trịnh ngôn khoét rộng trí tưởng tượng vượt tầm cõi sống.
Lối viết phê bình của Thụy Khuê không sa đà vào sự khuân thước, đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối, lịch sử định danh ai thế nào thì hiểu đúng như vậy, thậm chí còn cố nâng tầm giá trị của biểu tượng trong khi tầm vóc chỉ ngất ngưởng trong một giai đoạn chứ không phải toàn bộ tiến trình phát triển của văn học, Thụy Khuê luôn tìm một hướng nghĩ khác, chệch với lối hiểu thông thường, cách nghĩ này đôi lúc trượt khỏi nội dung vốn có của một tác phẩm và đắt giá là chỗ đó, bà tạo ra độ mở của tác phẩm, khiến tác phẩm có thêm một tầng nghĩa mới, tôi gọi đây là lối phê bình sáng tạo. Xét về ngôn ngữ thì từ điển chữ của Thụy Khuê chưa bằng lớp đàn anh như Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Ngọc Hiến hay Đặng Tiến, tuy nhiên thuộc chữ không bằng hay chữ, giỏi chữ không bằng dụng chữ, cách dụng chữ của Thụy Khuê rất gợi hình, rất lạ và mới, đôi lúc biến ảo như tiếng hát lên trời. Nhiều người bảo rằng Thụy Khuê được đọc ít hơn so với Đặng Tiến và Trần Đình Sử, rồi họ hùa rằng ai được đọc nhiều mới là hay, còn tôi thì nghĩ rằng sự đọc gắn liền với sự học và ứng dụng học vấn thành hành động. Đi học là một nhẽ, học ai mới quan trọng, tôi chẳng có duyên quen thầy giỏi nên dù từng học trường viết văn vẫn phải tự học, cái học nhiều nhất là trong quá trình đọc Thụy Khuê, cái học của tôi bao gồm cả cách đọc một cuốn sách, cách viết một đoạn văn, tôi hiểu được cái hay của văn học Việt, hiểu được thời vàng son của Văn Học Miền Nam, bao gồm cả việc tự vấn lòng vì sự thờ ơ, lạnh nhạt với nỗi đau dân tộc. Một nền phê bình xứng tầm, trước hết phải có sự đa thanh, đa ngôn, đa tư tưởng, mỗi tác phẩm có thể được đọc và hiểu theo nhiều hướng, quan trọng là mỗi người cần tôn trọng ý nghĩ của nhau, trao đổi bằng sự văn minh và tinh thần khai phóng chứ không phải sự kéo bè, thấy người ta khác mình là bôi bác, công kích cá nhân như đấu tố cải cách ruộng đất. Hành xử với đồng đạo như vậy thật quá thô thiển và trẻ con. Thấy tôi hay kể nhiều, nói nhiều về Thụy Khuê, lắm người bảo, vì bà viết nhiều cho tôi nên tôi thiên vị, tất nhiên, sự quý mến chỉ một phần, quan trọng là cái tình và sự tâm huyết của Thụy Khuê dành cho những nhà văn đương thời rất đáng nể, chẳng thế mà người luôn xem thường giới phê bình như Mai Thảo luôn chào đón Thụy Khuê như một tri kỷ nơi đất khách, bên cạnh đứa em ngang như cua là Trần Vũ.
*
Tết này chưa chắc em về được, bài viết ngắn sau khi Dương Nghiễm Mậu qua đời là điếu văn muộn, là sự tưởng niệm cố nhân hay là tiếng vọng trong lòng Thụy Khuê, có lẽ tất cả đều sai hoặc chỉ đúng ở sự tiếc nuối của một độc giả, phê bình dành cho một tài năng xuất chúng. Hai người gặp nhau qua văn chương, bên đọc, bên viết, bên sáng tác, bên phê bình, duyên văn từ tác phẩm và thuật ngữ Mậu Truyện cũng từ đó mà ra, năm nào Mậu cũng gửi email cho Thụy Khuê, hẹn một cuộc gặp ở Sài Gòn, cùng nhâm nhi café, Thụy Khuê luôn lỗi hẹn, năm này qua năm khác, lỗi hẹn đến lúc Mậu qua đời, chẳng còn lịch hẹn nào nữa, có chăng chỉ là lễ viếng mộ, thăm nhau giữa nghĩa trang, người sống nhìn người chết, mặt người hiện hữu bằng sự tưởng tượng, mờ tỏ trong hàng chữ Phi Ích Nghiễm. Lúc chưa chắc cho một chuyến về thì quán café Sài Gòn luôn dành một ghế trống, lúc về được thì chiếc ghế còn đó nhưng không còn bàn đợi, người đã theo gió về trời. Kể ra, Aki Tanaka may mắn hơn Thụy Khuê vì đã gặp Mậu, có nhiều cuộc chuyện, nhiều cuộc viếng thăm tư gia, được xem tranh Mậu vẽ. Tôi từng nảy ra ý nghĩ lấy bài viết ngắn đó làm tư liệu viết nhưng lưỡng lự, nghĩ chưa thông, đành bỏ đó, 3 năm sau tôi mới liên lạc với Thụy Khuê để xin được chắp bút. Truyện ngắn Ngõ Hạnh ra đời từ đó.
11 tháng sau, Thụy Khuê về nước, ở Hà Nội ít hôm rồi bay vào Sài Gòn. Lần về này Thụy Khuê làm một việc táo bạo đến không ngờ, cô tặng tranh của Lê Thị Lựu cho bảo tàng Mỹ Thuật Sài Gòn, cuốn Ấn Tượng Hoàng Hôn là tặng phẩm in giới hạn nhằm giới thiệu tiểu sử, gia cảnh của Lê Thị Lựu cùng vẻ đẹp cổ điển của tranh qua cách đọc tranh của Thụy Khuê. Tranh của Lê Thị Lựu rất có giá, ấy thế mà Thụy Khuê tặng cả mét tranh, ngoài những bức Thụy Khuê được tặng, cô còn sưu tầm, bỏ tiền túi ra mua, rồi trao quyền sở hữu cho viện bảo tàng, người đời thích giữ tranh cho mình, treo cho sang, đi đâu, gặp ai cũng khoe khoang về việc sở hữu tranh quý bằng tiền, còn Thụy Khuê tặng hết, tặng sạch bách, đến cả những bức ký họa bằng chì được Lê Thị Lựu vẽ riêng cũng gom về một mối, hôm ngồi ở phòng 303 trong xóm Hạ Hồi, chị gái bà đến thăm, bảo rằng đứa cháu ruột cứ than thở, bảo “Sao cô Tuệ dại thế, đem tặng cả núi của.” Nghe thế, Thụy Khuê mỉm cười, đáp rằng đời sống rất ngắn, cho được gì cứ cho, thà trao hết cho cuộc đời còn hơn giữ làm của riêng. Tôi lại nhớ đến cuộc đàm thoại giữa Thụy Khuê và Mai Thảo, ông nói rằng không có thói quen giữ sách của mình viết, mở đọc lại có khi còn xấu hổ, tốt nhất là cho hết, tặng hết, Mai Thảo vừa nói vừa cười, trùng hợp thay, chính tôi cũng hay cho, thậm chí tự mua sách của mình để tặng người, tủ sách của tôi không hề có cuốn nào của mình, đến tập Trăng Tang tưởng rằng mình giữ được bởi 3 chữ ký trong một trang sách, tôi cũng tặng cho một người, kẹp theo mẩu giấy gấp đôi viết lời cáo lỗi vì sách bị ố vàng bởi thời tiết, bìa cuối dính café, chỉ mong được nhận, không thì hãy hoàn trả vào thùng rác. Thụy Khuê tặng tranh như một lẽ tất yếu và buộc phải làm để mọi tầng lớp họa sỹ hiểu thêm về tranh Lê Thị Lựu, nghe đâu, sắp tới Thụy Khuê còn muốn gom tranh của Lê Phổ tặng cho viện bảo tàng Mỹ Thuật nào đó, dự định là thế nhưng chưa được toại vì dịch bệnh, kế hoạch tặng tranh đành hoãn lại, lời hẹn lấp lửng, tết này chưa chắc về được.
Hôm đấy, tôi đến gặp Thụy Khuê lúc 4 giờ chiều, ngồi chơi, đi ăn đến sẩm tối mới về. Ngày gặp lại, tôi may mắn là người đầu tiên ở miền Bắc nhân được cuốn Ấn Tượng Hoàng Hôn. Hai cô cháu còn hẹn hò nhiều cuộc, lúc ngồi nhà, đàm luận về văn học, lúc thì ra quán dùng bữa với mấy người bạn của cô, ngồi với Tạ Duy Anh, ngồi riêng, rồi thêm một chầu hẹn chót ở số 4 Đinh Lễ trước lúc về Pháp. Hôm đó, tôi và K đến sớm, đợi mãi, tưởng bị xù, cho leo cây, một lát sau Thụy Khuê mới đi bộ đến, vẫn dáng đi chậm rãi, thấp nhỏ quen thuộc của loài cú trắng náu mình trong hốc cổ thụ chốn đại ngàn.
Chúng tôi leo lên tầng 2 quán sách, cái gác chật, trần thấp như căn gác nhà tôi, xung quanh toàn sách là sách, đủ các thể loại, sách ngổn ngang tứ tung, liếc mắt, quờ tay là chạm vào sách, bàn viết của tôi đặt dựa vào tủ sách, lúc thèm chữ hay muốn tham vấn tri thức người chết là tôi quay lại, lục lọi, tôi đoán là phòng viết của Thụy Khuê cũng có cấu trúc sách vây quanh nhà, chỗ ở của K cũng chỉ có cái sofa thay giường cùng cái tủ sách xiêu vẹo chật cứng sách, dưới mặt bàn nghìn nghịt sách, ba đứa tôi không thể sống thiếu sách, quán tầng 2 này xây ra như để dành riêng cho chúng tôi. Bữa đó, chúng tôi nói về lịch sử và giáo dục khai phóng, cô Khuê bảo may lần này về gặp mấy đứa tôi, đỡ phải hầu chuyện mấy ông già, về Pháp là cô lại phải làm việc. “Cô cũng gần 80 rồi, chẳng mấy mà ngỏm, việc trả lại sự thật cho lịch sử, cô tin sẽ có người trẻ trong thế hệ các em làm được.”
Thụy Khuê hay viết cho tôi, có lẽ bà là người duy nhất chịu viết về sách của tôi sau Tạ Duy Anh, viết phê bình cho sách đã in, viết tựa cho hai bản thảo là Vật Choàng và Gai Mây, bài nào cũng kỹ lưỡng, tâm huyết như chuyên đề giải mã tác phẩm, tôi không tiếc khi bản thảo của mình không được dùng, bị lờ đi và tẩy chay ngầm, tôi chỉ áy náy, thấy ray rứt bởi luôn khiến Thụy Khuê phải hao sút tâm sức vì một failer như tôi. Chẳng cứ bản thảo mà thậm chí tôi còn điên rồ tới mức gửi cho bà những lá thư tuyệt mệnh tuổi 20, nhật ký ngày, gửi cả ảnh chụp ngoài phố, viết kèm dòng tâm trạng vẩn vơ, lúc buồn, lúc vui, lúc muốn gục xuống mà khóc mỗi khi đối chiếu thế hệ thời tiền chiến, Văn Học Miền Nam trước 1975 với thế giới mà tôi đang sống, xót xa, thấy rã rời, tôi chỉ muốn biến mất vào bóng tối…Thụy Khuê đọc hết và luôn phản hồi, vừa tâm sự ngắn vừa động viên, khích lệ, cố kéo vực tôi dậy để tin tưởng vào tương lai, tôi càng thấy tiếc, thấy uổng cho sự kỳ vọng quá lớn bà dành cho tôi. Trong mắt nhiều người, Thụy Khuê là người khắt khe, khó tính và cực đoan, còn với tôi, bà là người theo chủ nghĩa dân tộc, luôn muốn người Việt trưởng thành, đứng tầm thế giới, phương tây phải cúi đầu xin vinh danh người Việt chứ không phải sự quỳ gối xòe tay hứng ân huệ của cường quốc. Trong góc nhìn khác của tôi, Thụy Khuê gần gũi như người thân và đáng tin cậy như một người bạn vong niên, tôi có thể trút ra mọi tâm sự, nói bằng hết những suy tư không biết tỏ cùng ai, lâu lâu, tôi và bà vẫn tranh luận nảy lửa về cách đọc cách viết cách nhìn con người qua tác phẩm và bối cảnh lịch sử, mỗi người một phách, không ai thuận ai. Nếu cha tôi là người chiều tôi nhất thì Thụy Khuê đứng thứ 2, ngay đến việc nhờ vả, bắt bẻ Thụy Khuê viết riêng một bài để tư lợi tình cảm nhưng thất bại, nghĩ lại, tôi vẫn áy náy, nhưng nếu được chọn lại, đánh ngược cỗ xe thời gian thì tôi vẫn muốn được thấy Cát Tàn, trong tôi. Áy náy nhưng không hối hận, sai trăm phần trăm vẫn muốn lặp lại.
Tháng 6, 2020, tôi lên Tà Xùa, sống một tháng. Thời gian trên núi tôi lại hay ra suy tư. Tôi rời khỏi Hà Nội mang theo một ít sách nhưng chỉ đọc mỗi cuốn Vườn Ngôn Sứ của Gibran, một nơi thiên nhiên trù phú, khoáng đạt thì đọc dòng sách thiền triết là vào hơn cả. Nếu thành phố là một cái cũi đá trong địa ngục thì thiên nhiên là một sự thanh tẩy, lọc đi mọi xú uế trong thân xác. Tôi vẫn nghĩ đời sống trong cộng đồng dù ở bất cứ vị trí nào, là kẻ nhập cuộc hay người quan sát cũng là miền đất giàu dinh dưỡng để tạo tác, cấu trúc cá tính một con người, và văn chương chỉ có thể nảy mầm trong những luồng cảm xúc phân cực đến cùng cực, có người bị đồng hóa thành một thứ khác, có người mạnh mẽ, người vứt bỏ, kẻ thì chối bỏ cuộc đời, rút lui vào bóng tối, uống ly rượu chắt ra từ máu sầu, và khi tôi đứng trên đỉnh núi chót vót, đầy gió, lắng nghe tiếng lá cây xanh rì, mây như đổ sóng, tôi có thể đọc lại mọi sự đã qua của mình một cách tỉnh táo và tinh tường hơn. Nghệ thuật là thứ vô dụng nhưng không vô ích, nó không thể mài ra mà ăn, không thể hóa thành lửa nấu cơm, không dựng ra nhà ở, Beethoven có thể tạo ra những bản thần khúc nhưng không thể chữa được đôi tai, thậm chí nếu ông lành lặn thì thứ nhạc viết ra sẽ ở một dạng kém bi đát hơn, thứ cứu chữa bệnh tật là những liều thuốc tốt và kịp thời, còn để khai minh cho cộng đồng thì vai trò của trí thức, luật sư mới quan trọng. Ưu thế của nghệ thuật dù ở bất cứ loại hình, trường phái nào cũng khó đắc dụng vào cuộc sống, nghệ thuật là kết tinh của linh hồn ngoài thế giới nhưng bị đọa vào xác trần, chúng có thể nuôi dưỡng tâm hồn người và cũng có thể tàn phá tâm hồn người, nghệ thuật như những âm thanh, tiếng nói được cất lên để con người qua đó tìm thấy nhau và thấy mình, dẫu không phải để vui mà là để buồn, để đau và suy nghĩ về sự đau sự buồn thành một tiếng thở nhẹ nhõm, cười trước sự thấu tỏ của bức họa đồ hóc búa. Tôi không tôn sùng nhà văn nào, và cảm thấy ái ngại khi một nhà văn được xướng lên, tụng ca trong nhiều cộng đồng. Tỷ dụ Kafka, ông luôn mong được hiểu nhưng chẳng ai hiểu, nên ông muốn hủy nhưng lại chẳng dám xuống tay nên đành trao cho Max Brod, hành động này đã giải thích được việc Kafka luôn mong một bạn văn thực sự, bởi nhà văn chỉ viết cho bản thân trong quá trình viết, lúc ý tưởng đang chuyển động trong đầu, còn lúc viết ra dù in hay không đó cũng là thứ dành cho người khác. Sau cùng, ý nghĩa của nghệ thuật không gì ngoài một sợi chỉ nối người này với người kia, dẫn người nghệ sĩ vào những kì cảnh không ngờ, nhân đôi mọi cảm xúc yêu, buồn, oán, đau, khoái thú, độc khổ...thành tác phẩm.
Có một lần, Vũ nói rằng từng mơ thấy một quãng ký ức hồi bé và khi tỉnh dậy vẫn cứ nghĩ đang là ngày hôm sau của ký ức đó, khi nhìn gương, nhìn mọi thứ xung quanh mới biết đã gần 20 năm, lạ, bởi bản thân tôi vẫn hay bị như vậy nhưng không phải trong mơ mà là một hồi ức vọt qua đầu, đến lúc nhìn lại mới biết mình đã qua tuổi đó, rồi ăn năn vì mình đã phí phạm, không thể làm những điều mình muốn, có lúc tôi ngỡ ngàng vì bà cụ lưng còng gánh rau mỗi ngày đã qua đời từ 15 năm trước, những người quanh tôi đã thay đổi tới mức không thể ngờ được, lắm khi, tôi đạp xe đêm lên cầu Long Biên, nhìn đoàn tàu chạy trên đường ray, nghĩ đến Đêm Giã Từ Hà Nội, nghĩ đến Nguyên Hồng, nghĩ, nhớ lúc ngồi cạnh Vũ ở quán café A99, nhìn chuyến tàu Bắc Nam, giật mình, tiền nhân đã thành tro còn người từng bên tôi cũng vẫy tay chào không hẹn ngày gặp, tích tắc đó, tôi muốn khóc một trận cho thỏa, nhưng thật khó vì hồi bé khóc là điều dễ dàng, lớn lên không phải cứ muốn là khóc được, dẫu có cũng chỉ là mắt ngấn nước chứ không thể khóc òa, mặn sũng gò má như trẻ con. Ở Tà Xùa, tôi thường ngồi trên nhà sàn uống trà, hôm đó, bật bài Thiên Thai, Thái Thanh hát. Ngồi nghe, tôi cứ nghĩ đến video Thái Thanh hát tuổi 13 ở tuổi 80, tóc bạc trắng, tưởng rằng cô ấy mới hát vài tuần trước, vừa nghe vừa nhìn ra lan can, những gợn mây trắng phau trước mắt, dưới chân là núi, lối về đô thị, trên đầu là đỉnh mây, tôi đang đứng ở tầng mây ngút tầm mắt của thành phố, người dân đang chật vật mưu sinh, chen nhau từng chỗ để xe còn tôi ở đây, nhìn mây, thưởng trà, nghe tiếng hát về trời. Chuyến đi đấy, tôi chụp vô khối ảnh và gửi hết cho Thụy Khuê, hứa hẹn sẽ có dịp mấy cô cháu hội ngộ trên này. Thụy Khuê xem ảnh rất thích, thèm ra thiên nhiên nhưng sợ tuổi tác không leo nổi ngọn núi cao ngàn trượng. Tôi thư lại, bảo rằng “Luôn có xe chở cô lên tận đỉnh núi, lên rồi, đi được bao xa cứ đi, không thì em và cô ngồi ở nhà sàn uống trà, ngắm mây, tha hồ mà đàm đạo văn chương.” Thụy Khuê gởi tôi dòng oui như sự nhất trí, ngoéo tay giữa hai người cho một chuyến du sơn trong tương lai.
Những năm tháng dài, tôi chẳng biết gì ngoài những hình ảnh tưởng tượng chất nặng trí óc, rồi khi mọi thứ lên màu lên hình trong mơ và được tôi chép lại trên trang giấy, hình ảnh có giọng có, có hơi thở, nhịp tim và cảm xúc của một sinh thể còn đáng sống hơn tôi, họ có thể đi nhiều nơi, dạo bước trên muôn nẻo đời, gặp nhiều người, có bạn hữu, kết duyên với nhiều cô gái, họ yếu đuối lúc cần phải gục ngã mà mạnh mẽ, kiên gan, tự quyết lấy sống chết, là người chắp bút nhưng tôi không thể định đoạt lối đi của những nhân vật trong tôi, tôi chỉ có thể dõi theo, nép mình, hưởng ké hơi người trong mỗi cảnh truyện, tôi vừa là chủ thể vừa là ký vật trong cõi viết của mình, tôi hạnh phúc hay đau khổ, thản nhiên hay cô độc, chính tôi cũng không rõ, chỉ biết rằng trên con lộ này tôi may mắn gặp vài người đáng quý luôn tin tưởng về tài năng vốn dĩ không có của tôi. Viết văn, sau cùng cũng chỉ mang vai trò chiếu sáng những nguyện ước không thành và tìm một địa chỉ để hướng mình theo dù chỉ để gió cuốn đi. Thành bại không quan trọng bằng việc mình đã bước khỏi lăng mộ sâu hoắm để hiện hữu ngoài cuộc sống, trong hình dạng một kẻ viết văn nửa mùa. Mỗi lần nhìn lá vàng, tôi lại nhớ đến ngày Thụy Khuê tiễn đưa anh trai Trần Vũ, “Tại sao em lại phải chết, Em không muốn chết, chị ơi!” Lời nói anh trai của đứa em có lối viết ngang tàng ngân vọng trong đầu Thụy Khuê lúc bà thẫn thờ dưới sân bệnh viện, đếm từng chiếc lá rơi, đếm lá như lời tang sớm cho một kiếp buồn, đếm hết lá dưới sân rồi đếm lại, lá vẫn rơi theo gió, giật mình, mười năm tắm gội, ôi, chiếc lá thu phai, Trần Vũ chỉ biết nhìn anh trai qua tường kính bệnh viện, muốn bước vào nhưng rụt rè, bước lùi, còn Thụy Khuê đã ở cạnh anh ta những ngày cuối đời, săn sóc người bệnh như cách chú Khuê đã làm với người bà trong căn phòng hướng đông, người chết nhưng còn ký ức, miễn là còn thương, nặng tình với con người thì ký ức luôn sống trong đời mình. Bạn bè đi hết chẳng còn ai không đáng sợ, sợ là sợ lục lại ký ức, chẳng có ai trong đó.
Còn 7 ngày nữa là đến giáng sinh, chẳng mấy mà hết năm.
Tết này chưa chắc Thụy Khuê về được.
18.12.2021
Sửa lần cuối, 28.11.2024
TRU SA
- Từ khóa :
- TRU SA
