- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

DOÃN QUỐC SỸ TỪ HIỆN SINH ĐẾN VÀO THIỀN

25 Tháng Mười 20252:23 SA(Xem: 1621)
DOÃN QUỐC SỸ TỪ HIỆN SINH ĐẾN VÀO THIỀN

 

DOÃN QUỐC SỸ TỪ HIỆN SINH ĐẾN VÀO THIỀN

 Trần Kiêm Đoàn

 

 

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ mới qua đời tại Mỹ, hưởng Thọ 102 tuổi (theo lịch Âm là 103 tuổi). Ông là hàng nhà văn tiền bối cuối cùng trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam vừa ra đi. Ông vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo và cho rằng dạy học là nghề, viết văn là nghiệp. Như thế trong nhãn quan Phật giáo thì phải chăng văn chương là duyên và tác phẩm là “nợ” như khái niệm “duyên nợ trần ai” giữa đời thường.

 

Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam, nhà giáo chỉ đứng trên bục giảng của một khung cảnh xã hội nhất định; nhưng là nhà văn thì phải đứng giữa hai lằn đạn của khuynh hướng chính trị và nhân sinh “bên này Pyrenees là chân lý bên kia là sai lầm” nên nhà văn phải cầm ngọn bút dựa trên liêm sỉ của tâm hồn mà đứng dậy. Đặc biệt Doãn Quốc Sỹ xuất thân từ miền Bắc, vào Nam, rồi qua Mỹ giữa trùng điệp Trường Sơn và Pyrenees – cả chân lý lẫn sai lầm – để tồn tại không phải là một sự xác định hiện sinh đơn thuần mà là một hành giả... vào thiền: Âm trầm, khí phách mà lặng lẽ bởi “kiến tánh” để về với chính mình, tiếp cận đạo lý nhân sinh và thong dong đi giữa cuộc đời lắm đê điều, be bờ chắn lối.

 

Văn chương như duyên:

Ông không chọn văn như một con đường chính để sống; ông chọn nó bằng mối xúc cảm, bằng tâm niệm, bằng những gắn kết nội tại với đời. Có thể nói, văn chương đến với ông như một duyên lớn: duyên với ngôn từ, duyên với thời cuộc, duyên với nỗi đau cá nhân và cộng đồng. Duyên ấy không dễ nhận biết, không dễ đếm được, nhưng một khi đã bám sâu trong tâm thức, nó dẫn lối để người ấy phải cầm bút, dõi nhìn.

 

Sự nghiệp là nợ:

Sự nghiệp – dạy học và những vai trò xã hội – là cái ông gánh vác trong đời. Người thầy có trách nhiệm, người nhà giáo chịu gánh nặng cho lớp trẻ, cho nền học thuật. Trong Phật học, “nợ” chẳng phải là cái xấu; nợ là trách nhiệm: nợ tổ tiên, nợ nhân sinh, nợ chữ nghĩa, nợ chúng sinh. Ông mang nợ ấy không hờ hững, không tầm thường; ông trả lời nó bằng tận tâm, bằng sự vững vàng, bằng lòng kiên nhẫn suốt nhiều thập niên.

 

Giao hòa duyên - nghiệp:

Với Doãn Quốc Sỹ, dạy học không tách rời văn chương. Dạy học là cách thắp lên ngọn đèn cho người khác; văn chương là cách ông đốt lên ánh lửa in lại vào tâm người đọc. Hai cái ấy giao nhau, không song hành riêng rẽ. Nếu văn chương chỉ là duyên, nó mong manh dễ trôi khi duyên hết. Nếu sự nghiệp chỉ là nợ, nó có thể biến thành oán than nếu không có ý thức hướng thiện. Ông đã vừa giữ duyên văn chương, vừa gánh nợ sự nghiệp; và phải chăng đó là cách người trí nên sống theo hướng nhìn Phật, vào thiền, lấy tinh thần “tự độ, độ tha” làm kim chỉ nam giữa dòng sống muôn vạn nẻo đường.

 

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là tác giả của hơn 15 tác phẩm văn chương, văn học và khảo luận mang tầm vóc quốc gia và quốc tế. Là nhà giáo, ông từng du học, tu nghiệp ở Hoa Kỳ và làm giáo sư tại các trường trung học Hà Nội, Sài Gòn và Đại học Sư Phạm, Văn Khoa Sài Gòn từ đầu những năm 1960. Khuynh hướng sáng tác văn chương của nhà văn Doãn Quốc Sỹ mang đậm tính nhân bản, tâm linh và hiện sinh, thể hiện qua ba tầm mức sau đây:

 

1.     Khuynh hướng nhân bản: Bảo lưu phẩm giá con người

 

Doãn Quốc Sỹ luôn nhìn con người trong mối quan hệ giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lý tưởng và sa ngã: Nhân vật trong các truyện như Khu Rừng Lau, U Ám, Gió Trên Đảo Kinh, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều... thường là những con người nhỏ bé nhưng không buông xuôi, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện dù phải chịu đau thương. Ông coi con người là trung tâm của mọi bi kịch và cứu rỗi. Đó là một khuynh hướng nhân bản tích cực đậm tính hiện sinh Việt Nam. Hiện sinh không mang dấu ấn của hoài nghi tuyệt vọng đầy lý tính phương Tây mà rất gần với tinh thần phá chấp Phật giáo và tự tại Thằng Bờm dân gian Việt Nam.

 

2.     Khuynh hướng tâm linh:  Phật học và hướng nội

 

Trong số 15 tác phẩm sáng giá của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cuốn Vào Thiền là tác phẩm mỏng nhất (dưới 100 trang) nhưng lại là tác phẩm tái bản nhiều lần nhất. Vào Thiền xuất bản năm 1970 với nội dung là những giai thoại và tùy bút về Thiền như: Lời Thiền, Đạo Thiền, Hư Vô và Thực Tại “Ai hay không có – có không là gì?”...

Tư tưởng Phật giáo của Doãn Quốc Sỹ được thể hiện qua những suy tư “vào thiền” trong tác phẩm không rao giảng giáo lý Thiền mà để sự tỉnh thức đến với Thiền; mời gọi độc giả cùng sống với các nhân vật tự chiêm nghiệm nỗi khổ, sự vô thường và con đường giải thoát bằng tâm an lạc, trí sáng soi, lòng từ ái. Nội dung mang nét tĩnh lặng, hướng nội, thẩm nhập chiều sâu thiền quán giữa khung cảnh chiến tranh cũng như hòa bình và ngay giữa vòng tao loạn. Phong vị văn chương trong Vào Thiền  khác hẳn với  dòng văn chương hiện sinh, hoài nghi, bất chấp, nổi loạn đầy tính chất đô thị ồn ào thời thượng đương thời.

 

3.     Khuynh hướng hiện sinh: Căn bản đạo lý dân tộc

 

Sau 1954, trong bối cảnh chia cắt và khủng hoảng tinh thần, văn chương Doãn Quốc Sỹ đặt vấn đề “làm người giữa thời phi nhân”. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện sinh u ám, trầm tịch của Sartre hay Camus, Doãn Quốc Sỹ không tuyệt vọng, hướng tới hiện sinh cứu rỗi: Con người nhận diện bản ngã trong khổ đau và bằng tình thương vẫn có thể sống trọn đạo làm người Việt Nam giữa mọi hoàn cảnh, đem sự yên ắng trong chính mình để đối diện với bao nỗi lao đao ngoài xã hội.

 

Tính Thiền trong cõi Phật, tất cả đều là duyên trần. Cái gì do duyên sinh, cái ấy cũng do duyên diệt. Vì vậy, hợp hay tan đều chỉ là hai trạng thái tạm thời của dòng duyên sinh vô thường, không có gì cố định hay vĩnh cửu. Hiểu được vậy là bước đầu của trí tuệ buông xả. Còn duyên thì gặp, hết duyên thì chia nên sự nghiệp cho dù lớn lao đến mấy, cũng chỉ là khúc quanh trong dòng vô thường. Nên duyên nợ văn chương riêng một góc trời nghệ thuật như Doãn Quốc Sỹ, đem bút vào thiền không phải là cách nói ước lệ, mà là bản tâm, là nội quan soi chiếu cả đời.

 

Viết giữa chiến tranh, hậu chiến, hải ngoại, nhân vật cũng như hoàn cảnh sống giữa lịch sử nhiều biến động mà vẫn mang được nét như như tịnh không là bài toán khó. Đôi khi văn chương phải đối mặt với áp lực chính trị, kiểm duyệt, định kiến, cường quyền nên cần “tiến những bước lùi” để giữ cái nhân. Chất Thiền trong cuộc sống lắm lúc vô hình vô ảnh; cuộc hành trình cũng là hành hương trong thanh tịnh nhưng nhà văn đã trải nghiệm bao điều sinh diệt trong từng nháy mắt trên đường sáng tạo. Vị Thiền đầy ý nghĩa trong tác phẩm văn chương của Doãn Quốc Sỹ là không chạy đua với thời thịnh sự. Ông là một nhà văn thiên về chiều sâu, từ tốn, không bám theo xu hướng thị trường, không chạy theo cái danh, không đánh đổi tính chân thật để được nổi bật; ông giữ vững lập trường văn chương của mình, giữ cái chất đặc thù của người trải nghiệm nhiều tầng lớp biến động.

 

Khi nhà văn Doãn Quốc Sỹ phát hành Vào Thiền vào năm 1970 là thời điểm tôi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế và đang sinh hoạt với nhóm Thiền học của Liên Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên Huế, thường vẫn lấy tư tưởng Thiền Luận của Suzuki và sách báo Phật học của Đại học Vạn Hạnh với những tên tuổi của các tu sĩ và trí thức Phật giáo như quý thầy Thiên Ân, Minh Châu, Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Trí Siêu...; Nguyễn Đăng Thục, Phạm Công Thiện... Chúng tôi nắm bắt ngay cơ hội tác phẩm Vào Thiền vừa mới xuất bản để làm tài liệu tham khảo cho các đạo hữu trong nhóm. Nhưng mãi đến khi qua Mỹ, tôi mới có thiện duyên gặp được tác giả hai lần: Một lần tại Santa Ana với sự hiện diện của nhiều nhà văn, nhà báo và một lần tại Escondido trong khóa tu học Mở Cửa Trái Tim có Thầy Thích Nhất Hạnh chủ trì. Với Doãn Quốc Sỹ, con người và tác phẩm, nghệ thuật và nhân sinh, ngôn từ và tâm đạo là một; đọc tác phẩm cũng như đối diện với chính tác giả bằng xương bằng thịt: nét tài hoa, sự khiêm tốn và tinh thần trí tuệ, từ bi là chân dung của nhà văn vừa vĩnh biệt.

 

Với tuổi đời đại thượng thọ, nhà văn, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ ra đi như lá rụng về cội, tâm đạo về thiền. Thế hệ kế thừa chỉ mong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông được sớm dịch ra tiếng Anh, không phải ở tầm mức “thông ngôn” của Google hay Trí tuệ Nhân tạo mà phải là ngôn ngữ chuyên đề của văn chương nghệ thuật. Ông ra đi giữa mùa Thu: lá rụng về cội và về thiền là hòa nhập thể tánh; không lại hoàn không.

                             

                                

Sacramento, Thu 2025

Trần Kiêm Đoàn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Mười Một 20253:32 CH(Xem: 562)
Tháng 11 - 2025, đại tường Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Lễ đại tường là ngày giỗ năm thứ hai hai sau khi một người qua đời. Đại tường không chỉ là một nghi thức tang lễ nối dài mà là một triết luận sinh diệt siêu vượt những tín lý từng được cho là siêu việt của văn hóa và tôn giáo Á Đông, đặc biệt trong Phật giáo; nhất là khi nói đến một bậc danh tăng như Thầy Tuệ Sỹ lại càng mang nhiều ý nghĩa
13 Tháng Mười 202511:02 SA(Xem: 2096)
Cuộc khủng hoảng môi trường xuyên biên giới này đã ảnh hưởng đến sông Mekong, và các chuyên gia cảnh báo rằng chất ô nhiễm có thể lan tới cả Biển Đông.
13 Tháng Mười 20258:49 SA(Xem: 2616)
Nổi Buồn của Phản Kháng (The Melancholy of Resistance): Trong một thị trấn nhỏ tăm tối, lạnh lẽo, gần như bị bỏ quên ở vùng nông thôn Hungary, mọi thứ trôi qua trong sự trì trệ, u ám và vô nghĩa. Người dân sống lặp lại từng ngày, giữa rượu, tin đồn và nỗi sợ mơ hồ về điều gì đó sắp xảy ra — một sự tan rã nào đó mà không ai dám gọi tên.
13 Tháng Mười 20258:28 SA(Xem: 2173)
Mùa Nobel đang nở rộ với các giải thưởng danh giá nhất trong nhiều lĩnh vực chuyên môn như Vật Lý, Hóa Học, Y Khoa, Văn Chương, Hòa Bình đang lần lượt được công bố. Sự thú vị tuyệt vời trong mùa phát giải Nobel là hầu hết người trúng giải đều thật sự xứng đáng là những nhân vật tinh hoa thời đại. Giải Nobel Văn Chương năm nay đang xoáy vào đề tài “hoang mạc tinh thần” hay “sa mạc vô tâm”... nói đến thân phận con người giữa vòng xoáy của sự cô độc trong cơn tuyệt vọng gần như tận thế của tâm hồn. Trước nỗi tuyệt vọng đầy cuồng nộ của phương Tây và nhẹ nhàng hơn ở phương Đông mình thử làm người cưỡi ngựa xem hoa, đi tìm vài giọt sương Thu trong cơn khát cháy...
27 Tháng Chín 20256:15 CH(Xem: 2867)
Đây có vẻ như một sự kiện nghịch lý đến buồn cười bởi trong suốt 50 năm qua, NHL thường bị đội nón cối “thân Cộng”; dẫu chẳng có chiếc nón định kiến nào vừa vặn cho một nhân vật cộng đồng đa năng, đa dạng và... đa đoan như NHL. Tôi vừa về Việt Nam, nghe bạn bè kể rằng, NHL bị buộc quay trở lại Mỹ khi vừa tới phi trường Tân Sơn Nhất... mà không biết nên vui hay buồn khi nghĩ đến "quê hương là chùm khế ngọt"; nhưng giấc mơ "ăn khế trả vàng may túi ba gang mà đựng" trong cổ tích huyền thoại cũng không còn trong thế hệ GENZ với trí tuệ thật đang bị trí tuệ nhân tạo làm chao đảo này.
11 Tháng Chín 202510:04 CH(Xem: 3765)
Hơn hai tuần qua, bộ phim “Mưa Đỏ” đã tạo nên một hiệu ứng truyền thông chưa từng có trong lịch sử Điện ảnh Việt - vượt rất xa phim “Địa đạo - mặt trời trong lòng đất” từng làm mưa làm gió phòng vé mấy tháng trước, và tạo nên một đợt sóng dư luận mới - trong đó, khen nhiều hơn chê, chủ yếu là khen ăn theo dư luận; và cái “Khen” chủ yếu dựa trên một định đề quen thuộc nằm trong “chiến lược truyền thông” chính thống lâu nay ăn vào não trạng phần đông dân Việt: “Cần mô tả, ca ngợi sự hy sinh mất mát to lớn để hiểu cái giá của Hòa Bình, Độc lập - Tự do”…
31 Tháng Tám 202512:36 SA(Xem: 3566)
Đó là một trường hợp trong vô số những ca khúc nổi tiếng, nhầm lẫn tựa đề lẫn tác giả. Điều này rất đáng tiếc và cảm thấy thật buồn. Khán thính giả từ trong nước đến hải ngoại từng rung động trước những ca khúc như: Tình nào trong mắt em, Người tình không đến, Nối lại tình xưa, Chờ đông,… Ca khúc Chờ Đông thì bị gắn tên tác giả Trần Thiện Thanh. Đường Tình Đôi Ngã gắn cho nhạc sỹ khác. “Đêm buồn phố thị” lại cho là sáng tác của Ngọc Sơn. Còn tệ hơn nữa có những trung tâm băng đĩa không hề ghi tên tác giả hoặc ghi Vũ Như Cẩn (vẫn như cũ). Những bài hát bị gán nhầm tên tác giả hoặc đổi tựa và rồi khi sự thật, người thật bị vùi lấp quá lâu, người đi sau lại ghi lại cái sai của người đi trước. Nhạc sỹ Ngân Giang từng bị xóa tên khỏi bài hát do ông đổ mồ hôi và nước mắt để viết nên nó. Đó là sự nhập nhằng, vô tâm, tắc trách trong thị trường âm nhạc. Người ta có thể thuộc và hát say sưa một ca khúc nhưng lại không biết tác giả là ai.
30 Tháng Tám 20259:54 CH(Xem: 4013)
Một lần, khi bước lên tam cấp bằng gạch tàu xưa của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô Sài Gòn, tôi cảm thấy rất sống động, bóng ba tôi trong bộ quần áo màu mỡ gà của ngày ông ra đi, cầm một cây gậy tre đứng dưới bóng cây, tôi nghe rõ như hồi tôi 19 tuổi, ba sẽ làm một hòn non bộ dưới gốc cây này, và tôi đã viết, ở đó, câu thơ … hãy bước lên bậc-tam-cấp-thời-gian, quá khứ-hôm nay-và ngày mai. Và chọn một giấc mơ … đó là điều gắn bó tôi với ba bậc thềm tam cấp. Không phải vì cái ý nghĩa của ba chủ thể Trời – Đất – Con Người trong tri giác tam sinh, để nhắc nhở vô thường Sinh Lão Bệnh Tử, mà tôi cảm giác ba bậc thềm ấy như một dòng thời gian hư ảo. Khi bước lên nó như thể bước vào ngưỡng của giấc mơ. Nó là kinh nghiệm tôi có được khi cảm giác ấy được lặp đi lặp lại, thành một quy ước vô thức mà tôi cho rằng chỉ những ai sống thường trực trong nó mới cảm biết.
19 Tháng Tám 20255:49 CH(Xem: 4134)
Trương Vĩnh Ký (1837–1898) từ lâu đã là một nhân vật nhiều tranh cãi trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Ông là trí thức Tây học sớm nhất, thông thạo nhiều ngoại ngữ, có đóng góp nhất định cho việc phát triển chữ Quốc ngữ. Nhưng đồng thời, ông cũng là viên chức phục vụ trực tiếp cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Giữa hai cực sáng – tối ấy, giới nghiên cứu và văn học Việt Nam đã có những cách đọc rất khác nhau. Một số nhà phê bình văn học, tiêu biểu như Nguyễn Vy Khanh, xem ông là “tinh hoa văn hóa” và là niềm tự hào của dân tộc. Trong khi đó, sử gia Vũ Ngự Chiêu, dựa trên tư liệu gốc và phương pháp khoa học, đã khẳng định Trương Vĩnh Ký là một trí thức bản xứ cộng tác với ngoại bang. Câu hỏi lớn được đặt ra: chúng ta cần văn học để dựng nên huyền thoại, hay cần sử học để nói sự thật?
16 Tháng Tám 20254:58 CH(Xem: 4076)
Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản, được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh “Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.