- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGỌN LỬA VÀ ÁNH TRĂNG: DI SẢN TINH THẦN THÍCH TUỆ SỸ GIỮA KHỔ ĐAU VÀ GIẢI THOÁT

03 Tháng Mười Một 20253:32 CH(Xem: 570)


Thich Tuệ Sỹ 1

NGỌN LỬA VÀ ÁNH TRĂNG:

DI SẢN TINH THẦN THÍCH TUỆ SỸ GIỮA KHỔ ĐAU VÀ GIẢI THOÁT

Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn

 

 

“Đường xưa vẫn gió, trăng chưa từng tắt,

Người đi rồi, mà nắng vẫn trong veo.”

TUỆ SỸ

 

 

 

Tháng 11 - 2025, đại tường Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Lễ đại tường là ngày giỗ năm thứ hai hai sau khi một người qua đời. Đại tường không chỉ là một nghi thức tang lễ nối dài mà là một triết luận sinh diệt siêu vượt những tín lý từng được cho là siêu việt của văn hóa và tôn giáo Á Đông, đặc biệt trong Phật giáo; nhất là khi nói đến một bậc danh tăng như Thầy Tuệ Sỹ lại càng mang nhiều ý nghĩa:

 

Trước hết là ý nghĩa nhân sinh: Là sự tiếp nối của tình người và đạo nghĩa. Đây là cột mốc chuyển hóa nỗi đau thành tri ân. Sau hai năm, tang thân (có cả tăng thân) và đồ chúng đã lắng dịu tiếc thương, thay vào đó là niềm biết ơn, kính trọng cũng như khát vọng tiếp nối đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Người ra đi không mất, mà hiện hữu trong tâm tưởng tu, trong hành động thiện, trong hạnh nguyện lành của người ở lại.

 

Đặc biệt là theo tinh thần triết học Phật giáo mà Thầy Tuệ Sỹ đã suốt đời hoằng hóa, Đại Tường là biểu tượng của vô thường và duyên sinh. Chết không phải là hết, mà là một chuyển động trong chuỗi tương tục của nhân duyên: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”, khi mọi sinh diệt đều tắt, thì tịch diệt (Niết bàn) mới là an lạc đích thực. Cái chấm dứt hình tướng của bậc trí tuệ là sự trở về thể tánh, không còn bị ràng buộc bởi thân xác hay danh vọng mà chỉ còn lại ánh sáng của trí tuệ - tâm từ.

 
Thich Tuệ Sỹ 2

Với đạo Phật, Đại Tường là dịp thực hành hồi hướng công đức cho bậc chân nhân đã viên tịch, giúp hương linh (và chính mình) tiến gần hơn tới giải thoát. Đồng thời, giúp thức tỉnh tâm người sống để biết rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường và con đường tu tập là cách duy nhất vượt thoát sinh tử. Sự tịch diệt của một bậc chân tu không phải là mất mát, mà là sự trở về với pháp giới. Do vậy, đối với một nhân vật như Thầy Tuệ Sỹ, lễ Đại Tường không chỉ là lễ tưởng niệm, mà là một tuyên ngôn của trí huệ cũng như trí tuệ và đạo đức Phật giáo Việt Nam trong thời đại mới: Biết buông bỏ vô minh, sống an nhiên giữa vô thường và tiếp nối ánh sáng lương tri bằng chính đời sống tỉnh thức của mình.

 

Ánh lửa Đại Tường trong tâm ảnh người đi

 

Một sớm mai có nắng mùa Đông ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội; Paris hay California... khói nhang trầm quyện vào tiếng chuông chùa trầm lắng, người mường tượng từ tâm ảnh và hiện ảnh về lễ đại tường tưởng nhớ Thầy Tuệ Sỹ tỏa lên như ngọn lửa và ánh trăng nhắc về một kiếp người tròn đầy trong vô thường.

 

Giữa không gian ấy, ta không chỉ tưởng niệm một vị cao tăng, mà còn tưởng niệm một ngọn lửa đã cháy trọn trong đêm dài của dân tộc và đạo pháp: một ngọn lửa từng soi đường cho bao thế hệ học Phật, viết Phật và sống Phật. Kỳ lạ thay, ngọn lửa ấy không thiêu đốt mà lại tỏa sáng bằng ánh trăng – ánh trăng rằm miên du của Tuệ giác. Ánh sáng lung linh ấy không chỉ chiếu soi một tấm thân đã hóa cát bụi, mà còn tiếp tục soi đường cho bao tâm thức đang đi trong đêm dài của thời đại.

 

Biểu tượng Thích Tuệ Sỹ là dòng sống giữa hai cõi: hiện sinh và siêu việt.

 

Một cuộc đời biểu hiện của hiện sinh khổ đau: tù ngục, khốn khó, bệnh tật, hoàn cảnh đầy thách thức... Nhưng trong cái khổ ấy lại là một tâm thức siêu việt an nhiên: “Tự do không phải là trạng thái, mà là tâm thái.”

 

Ở đây, triết học Phật giáo gặp gỡ triết học hiện sinh, tuy cùng đại lộ mà trên hai nẻo phân tâm – Sartre và Kierkegaard tìm tự do trong phi lý – Thích Tuệ Sỹ tìm tự do trong chân lý vô ngã. Lộ trình Tuệ Sỹ không chống lại khổ đau, mà xuyên thông qua nó; không phủ nhận đời, mà sống giữa đời như một bài Tâm Kinh vô tự để từ đó đi vào “Tam Tâm Pháp Ấn”: Từ bi - Trí tuệ - Tự do.

 

Từ bi trong hành động: dấn thân vì tỉnh thức, vì con người, vì lý tưởng giác ngộ để hoằng dương chánh pháp. Từ bi, không chỉ là lòng thương mà là dấn thân. Thầy không rút lui vào cõi thiền am tĩnh mịch, mà bước ra giảng dạy, viết, dịch, tranh luận, hoằng pháp – để ngọn đèn Phật học Việt Nam không tắt giữa thế kỷ đầy biến động.

 

Trí tuệ trong ngôn ngữ: triết luận hàn lâm mà gần gũi, dịch thuật uyên bác mà tỏa sáng, thi ca bay nhẹ vào đời như mây trắng chân không. Trí tuệ, là cốt tủy trong từng trang kinh, từng luận thuyết. Từ Triết học về Tánh Không đến Đạo Phật và Con Người hiện đại, Thầy luôn đi tìm một lối vào Phật pháp bằng con đường khai phóng, nơi tri thức không đối nghịch với đức tin, mà nâng đỡ đức tin.

 

Tự do trong tâm thức: vượt mọi áp bức, không vướng vào danh lợi, hình tướng hay quyền uy. Tự do, là hơi thở cuối cùng của một đời người tu. Không tự do, thì đạo chỉ là khuôn phép; có tự do, mới có giác ngộ. Thầy từng nói:

 

“Không ai có thể hoằng pháp nếu chưa từng giải thoát khỏi chính mình.”

 

Câu ấy, giờ đọc lại, như một lời gửi cho tất cả những người đi sau; những ai đang hoằng pháp trong kỷ nguyên hỗn mang của thông tin và ảo tưởng; rằng, điều quan trọng nhất không phải là nói về đạo, mà là sống được trong đạo.

 

Trong tác phẩm Triết học về Tánh Không, Thầy Tuệ Sỹ viết: “Không có cái Ta nào bị giam cầm, chỉ có vô minh tưởng rằng mình bị giam.” Tư tưởng này vẫn được xem là “dấu ấn triết học” của Phật học Việt Nam thời hiện đại: tự do như là tự tri; an trú trong chánh niệm. Bởi vậy, ánh trăng thiền vị trong thơ Tuệ Sỹ đã là một trời thơ. Đẹp quá!

 

Tuệ Sỹ không là một thi sĩ làm ra thơ mà thơ đã chính là tâm hồn thi sĩ nên thơ Thầy là một thiền khúc tâm ca vượt lối mòn và ước lệ thời đại.

 

“Một ngày nào đó / Trên vết chân người / Cỏ sẽ mọc xanh / Và mưa sẽ rơi.”

 

Đó là lời của một người không tuyệt vọng, dù thân bị giam trong trần lao, tâm vẫn hòa vào hư không, như trăng soi qua song sắt.

 

Thơ Tuệ Sỹ là “thiền ca hiện sinh”; không nói vô ngã bằng triết, mà bằng hơi thở, bằng chữ nghĩa mềm mại, thong dong siêu vượt như hương khói nhang trầm.

 

Và ánh trăng vằng vặc trong tâm thức người ở lại

 

Đại Tường không phải là khép lại một kiếp người, mà là mở ra một kiếp sáng. Cuộc đời Thầy Tuệ Sỹ là minh chứng hùng hồn cho chân lý ấy. Thầy đã sống giữa hai cõi hiện sinh và siêu việt:

 

Ở cõi hiện sinh, Thầy từng chịu giam cầm, thiếu ăn, bệnh tật và cô đơn. Thân phận ấy, nếu nhìn bằng con mắt thế gian, là một bi kịch. Nhưng ở cõi siêu việt, chính trong khổ đau, Thầy tìm thấy con đường giải thoát như Thầy từng viết:

 

“Không có cái Ta nào bị giam cầm, chỉ có vô minh tưởng rằng mình bị giam.”

 

Đó không chỉ là một phát biểu triết học, mà là một tuyên ngôn của tự do nội tâm – thứ tự do không thể bị còng trói bởi quyền lực hay xiềng xích.

Nếu Sartre nói: “Con người bị kết án phải tự do,” thì Thích Tuệ Sỹ lại cho rằng: “Con người giải thoát khi thấy rõ không có cái Ta nào để bị kết án.”

 

Thầy đã đi xa, nhưng Tuệ vẫn còn ở lại. Ở lại trong từng hơi thở của người học đạo, trong từng dòng chữ của thiền lâm Phật học, nơi Thầy đã góp phần gieo hạt giống tư tưởng, đối thoại và tự do. Ở lại trong những ai từng tin rằng Phật pháp không chỉ là giáo lý để tụng niệm, mà là ánh sáng soi đường trong những khúc quanh tối nhất của đời người.

 

Ngọn lửa Tuệ Sỹ đã cháy trọn một đời và chính vì cháy trọn, nên đã hóa thành ánh trăng. Ánh trăng ấy không bốc cháy dữ dội, mà soi đường cho từng bước chân hậu học trên con đường dài của Phật pháp và nhân sinh.

 

Những người ở lại, dù không đủ để nối gót, vẫn có thể giữ được ánh sáng khi vẫn khiêm cung lắng lòng trầm tư trong tịch lặng để chắt lọc pháp ngôn, xiển dương pháp thoại, sáng tác pháp tuệ, cung dưỡng pháp hành... trong tương quan nghệ thuật với nhân sinh cho Đạo và cho Đời.

 

“Ta về trong bóng nguyệt xưa,

Nghe hoa vẫn nở như chưa hề tàn.”

                                       (Hồi quang)

 

 

 

 

 Thich Tuệ Sỹ 3-Thầy Ơi

 

Thầy ơi!

Ánh trăng vẫn đó.

Và trong mỗi người còn lại, ngọn lửa của Thầy chưa bao giờ tắt.

 

Sacramento, thủ phủ Cali. Quý Thu 2025

       Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Mười 20252:23 SA(Xem: 1624)
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ mới qua đời tại Mỹ, hưởng Thọ 102 tuổi (theo lịch Âm là 103 tuổi). Ông là hàng nhà văn tiền bối cuối cùng trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam vừa ra đi. Ông vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo và cho rằng dạy học là nghề, viết văn là nghiệp. Như thế trong nhãn quan Phật giáo thì phải chăng văn chương là duyên và tác phẩm là “nợ” như khái niệm “duyên nợ trần ai” giữa đời thường.
13 Tháng Mười 202511:02 SA(Xem: 2097)
Cuộc khủng hoảng môi trường xuyên biên giới này đã ảnh hưởng đến sông Mekong, và các chuyên gia cảnh báo rằng chất ô nhiễm có thể lan tới cả Biển Đông.
13 Tháng Mười 20258:49 SA(Xem: 2617)
Nổi Buồn của Phản Kháng (The Melancholy of Resistance): Trong một thị trấn nhỏ tăm tối, lạnh lẽo, gần như bị bỏ quên ở vùng nông thôn Hungary, mọi thứ trôi qua trong sự trì trệ, u ám và vô nghĩa. Người dân sống lặp lại từng ngày, giữa rượu, tin đồn và nỗi sợ mơ hồ về điều gì đó sắp xảy ra — một sự tan rã nào đó mà không ai dám gọi tên.
13 Tháng Mười 20258:28 SA(Xem: 2173)
Mùa Nobel đang nở rộ với các giải thưởng danh giá nhất trong nhiều lĩnh vực chuyên môn như Vật Lý, Hóa Học, Y Khoa, Văn Chương, Hòa Bình đang lần lượt được công bố. Sự thú vị tuyệt vời trong mùa phát giải Nobel là hầu hết người trúng giải đều thật sự xứng đáng là những nhân vật tinh hoa thời đại. Giải Nobel Văn Chương năm nay đang xoáy vào đề tài “hoang mạc tinh thần” hay “sa mạc vô tâm”... nói đến thân phận con người giữa vòng xoáy của sự cô độc trong cơn tuyệt vọng gần như tận thế của tâm hồn. Trước nỗi tuyệt vọng đầy cuồng nộ của phương Tây và nhẹ nhàng hơn ở phương Đông mình thử làm người cưỡi ngựa xem hoa, đi tìm vài giọt sương Thu trong cơn khát cháy...
27 Tháng Chín 20256:15 CH(Xem: 2867)
Đây có vẻ như một sự kiện nghịch lý đến buồn cười bởi trong suốt 50 năm qua, NHL thường bị đội nón cối “thân Cộng”; dẫu chẳng có chiếc nón định kiến nào vừa vặn cho một nhân vật cộng đồng đa năng, đa dạng và... đa đoan như NHL. Tôi vừa về Việt Nam, nghe bạn bè kể rằng, NHL bị buộc quay trở lại Mỹ khi vừa tới phi trường Tân Sơn Nhất... mà không biết nên vui hay buồn khi nghĩ đến "quê hương là chùm khế ngọt"; nhưng giấc mơ "ăn khế trả vàng may túi ba gang mà đựng" trong cổ tích huyền thoại cũng không còn trong thế hệ GENZ với trí tuệ thật đang bị trí tuệ nhân tạo làm chao đảo này.
11 Tháng Chín 202510:04 CH(Xem: 3769)
Hơn hai tuần qua, bộ phim “Mưa Đỏ” đã tạo nên một hiệu ứng truyền thông chưa từng có trong lịch sử Điện ảnh Việt - vượt rất xa phim “Địa đạo - mặt trời trong lòng đất” từng làm mưa làm gió phòng vé mấy tháng trước, và tạo nên một đợt sóng dư luận mới - trong đó, khen nhiều hơn chê, chủ yếu là khen ăn theo dư luận; và cái “Khen” chủ yếu dựa trên một định đề quen thuộc nằm trong “chiến lược truyền thông” chính thống lâu nay ăn vào não trạng phần đông dân Việt: “Cần mô tả, ca ngợi sự hy sinh mất mát to lớn để hiểu cái giá của Hòa Bình, Độc lập - Tự do”…
31 Tháng Tám 202512:36 SA(Xem: 3567)
Đó là một trường hợp trong vô số những ca khúc nổi tiếng, nhầm lẫn tựa đề lẫn tác giả. Điều này rất đáng tiếc và cảm thấy thật buồn. Khán thính giả từ trong nước đến hải ngoại từng rung động trước những ca khúc như: Tình nào trong mắt em, Người tình không đến, Nối lại tình xưa, Chờ đông,… Ca khúc Chờ Đông thì bị gắn tên tác giả Trần Thiện Thanh. Đường Tình Đôi Ngã gắn cho nhạc sỹ khác. “Đêm buồn phố thị” lại cho là sáng tác của Ngọc Sơn. Còn tệ hơn nữa có những trung tâm băng đĩa không hề ghi tên tác giả hoặc ghi Vũ Như Cẩn (vẫn như cũ). Những bài hát bị gán nhầm tên tác giả hoặc đổi tựa và rồi khi sự thật, người thật bị vùi lấp quá lâu, người đi sau lại ghi lại cái sai của người đi trước. Nhạc sỹ Ngân Giang từng bị xóa tên khỏi bài hát do ông đổ mồ hôi và nước mắt để viết nên nó. Đó là sự nhập nhằng, vô tâm, tắc trách trong thị trường âm nhạc. Người ta có thể thuộc và hát say sưa một ca khúc nhưng lại không biết tác giả là ai.
30 Tháng Tám 20259:54 CH(Xem: 4014)
Một lần, khi bước lên tam cấp bằng gạch tàu xưa của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô Sài Gòn, tôi cảm thấy rất sống động, bóng ba tôi trong bộ quần áo màu mỡ gà của ngày ông ra đi, cầm một cây gậy tre đứng dưới bóng cây, tôi nghe rõ như hồi tôi 19 tuổi, ba sẽ làm một hòn non bộ dưới gốc cây này, và tôi đã viết, ở đó, câu thơ … hãy bước lên bậc-tam-cấp-thời-gian, quá khứ-hôm nay-và ngày mai. Và chọn một giấc mơ … đó là điều gắn bó tôi với ba bậc thềm tam cấp. Không phải vì cái ý nghĩa của ba chủ thể Trời – Đất – Con Người trong tri giác tam sinh, để nhắc nhở vô thường Sinh Lão Bệnh Tử, mà tôi cảm giác ba bậc thềm ấy như một dòng thời gian hư ảo. Khi bước lên nó như thể bước vào ngưỡng của giấc mơ. Nó là kinh nghiệm tôi có được khi cảm giác ấy được lặp đi lặp lại, thành một quy ước vô thức mà tôi cho rằng chỉ những ai sống thường trực trong nó mới cảm biết.
19 Tháng Tám 20255:49 CH(Xem: 4136)
Trương Vĩnh Ký (1837–1898) từ lâu đã là một nhân vật nhiều tranh cãi trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Ông là trí thức Tây học sớm nhất, thông thạo nhiều ngoại ngữ, có đóng góp nhất định cho việc phát triển chữ Quốc ngữ. Nhưng đồng thời, ông cũng là viên chức phục vụ trực tiếp cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Giữa hai cực sáng – tối ấy, giới nghiên cứu và văn học Việt Nam đã có những cách đọc rất khác nhau. Một số nhà phê bình văn học, tiêu biểu như Nguyễn Vy Khanh, xem ông là “tinh hoa văn hóa” và là niềm tự hào của dân tộc. Trong khi đó, sử gia Vũ Ngự Chiêu, dựa trên tư liệu gốc và phương pháp khoa học, đã khẳng định Trương Vĩnh Ký là một trí thức bản xứ cộng tác với ngoại bang. Câu hỏi lớn được đặt ra: chúng ta cần văn học để dựng nên huyền thoại, hay cần sử học để nói sự thật?
16 Tháng Tám 20254:58 CH(Xem: 4076)
Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản, được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh “Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.