- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

QUAN HỘ ĐÊ BẮC THÀNH LÊ ĐẠI CANG

25 Tháng Năm 20226:30 CH(Xem: 8013)
QUAN HO DE

QUAN HỘ ĐÊ BẮC THÀNH LÊ ĐẠI CANG     

Mai An Nguyễn Anh Tuấn     

 

Cách đây mấy năm, trong khi làm phim tài liệu chân dung “Lê Đại Cang - nhân cách bậc quốc sĩ”, nhà báo - Tổng BT tạp chí Văn Hiến Nguyễn Thế Khoa đã đưa tôi tới sông đào Ngũ Huyện Khê để ghi hình ảnh bộ cho phim này.

 

Ngũ Huyện Khê là một chi lưu của sông Đuống, bắt nguồn từ địa phận huyện Đông Anh, Hà Nội và đổ vào sông Cầu tại thành phố Bắc Ninh. Sau đó, tôi đã lang thang bằng tàu thuyền là chủ yếu, đi dọc sông Hồng và một vài đoạn sông nhánh quan trọng đến với các làng xã truyền thống vùng châu thổ Hà Nội, để mong tìm được dấu vết của cụ Lê Đại Cang thời được vua Minh Mệnh sung cho chức “Quản lý Nha Đê chính Bắc thành", mà theo một số tư liệu thành văn và truyền miệng, cụ đã được một vài nơi tôn làm Thành hoàng làng...

 

Trên dòng sông Hồng, tức sông Cái, tôi đã suy ngẫm nhiều về hành trạng của Quan hộ đê Bắc thành Lê Đại Cang. Đây là dòng sông mà từ hồi đầu thế kỷ XX, nhà địa lý học nhân văn người Pháp Pierre Gourou đã nhận định: “là con sông chủ yếu của Bắc Kỳ; chính nó đã tạo ra châu thổ bằng phù sa và chính nó luôn luôn đe doạ châu thổ khi tràn ngập. Sông Hồng chảy qua châu thổ như một kẻ xa lạ đáng sợ chứ không phải như một ngưòi cộng sự hữu ích, đó là do sự hung dữ và những trận lụt lớn của nó” (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ  - Nxb Trẻ, 2003).

 

Vùng châu thổ sông Hồng trong hàng nghìn năm đó đã tạo ra một nền văn minh từng toả ánh sáng ra các quốc gia lân cận, và được các nhà nghiên cứu lịch sử có uy tín trong nước và nước ngoài mệnh danh là: “ Nền văn minh lúa nước” hay “ Nền văn minh sông Hồng”. Trên cơ sở sự phát triển của Văn minh sông Hồng, từ hàng ngàn năm về trước, những Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam - như Văn Lang và Âu Lạc đã lần lượt được khai sinh. Các nhà nghiên cứu cũng không ngần ngại khẳng định rằng: Văn minh sông Hồng là nền văn minh dựng nước, là nền văn minh đầu tiên xây dựng và khẳng định bản sắc văn hoá Việt Nam.

 

Để tồn tại, ông cha ta đã tiến hành chinh phục châu thổ, một trong những sự nghiệp đó là quai đê, lấn biển. Cả một hệ thống đê điều khổng lồ dài đến gần 2.000km, công trình đắp bằng tay kéo dài trong nhiều thế kỷ! Không những đắp đê để ngăn lũ của các dòng sông, xây dựng những công trình thuỷ lợi vĩ đại, ông cha ta còn đồng thời tiến hành đắp đê ngăn sự xâm lấn của nước biển để bảo vệ những cái nôi của châu thổ. Cạnh đó là những cuộc lấn biển hối hả để mở rộng châu thổ… Công cuộc chinh phục các dòng sông và biển cả quả là một bản anh hùng ca tráng lệ, đó là cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa con người với nước lũ, biển cả, bão tố, úng ngập, hạn hán, và biết bao biến cố khác của thiên nhiên, của lịch sử. Từ 2.500 năm trước đây, những trận lũ lớn của sông Cái còn là thiên tai không kiểm soát được, nhưng vào đầu công nguyên, con người đã bắt đầu đắp đê ngăn lũ, phù sa dày đặc trong nước lũ đã lắng đọng tạo nên những bãi mật phù sa- theo các nhà nghiên cứu, đây có thể là thời kỳ đã ra đời thần thoại Sơn Tinh thắng Thuỷ Tinh…

 

Tính nết ghê gớm của sông Mẹ xuất hiện khi mùa mưa lũ đến. Lũ về, nước sông chảy xiết, dòng nước đục ngầu phù sa, cuốn phăng tất cả những gì có thể. Một nhà khí tượng thuỷ văn đã cho biết: lũ sông Hồng có ba tính chất nguy hiểm với con người. Trước hết là có nhiều con lũ trong cùng một mùa nước lên, khiến cho con người vất vả để thích nghi với mức nước lên xuống trong canh tác nông nghiệp. Thứ hai, lũ sông Hồng vận chuyển một khối lượng nước rất lớn, do mưa to và dốc cao, những khối nước đó sẽ tràn ngập cả châu thổ nếu như chúng không bị ngăn lại kịp thời. Người dân sống hai bên bờ sông Mê Kông thì dễ thích nghi được với lũ của sông Mê Kông vì lũ của nó rất chậm và rất đều đặn, thậm chí họ còn có thể trồng được một thứ lúa nổi mọc theo mực nước dâng lên. ở Bắc Kỳ thì đồng ruộng, hoa màu luôn bị đe doạ bởi con sông Cái chảy xiết (từ 2m đến 3m một giây vào thời điểm có lũ), và có những biến động đột ngột bởi sông bị kẹp giữa những ngọn núi cao có sườn dốc đứng cho đến khi nó vào châu thổ. Người dân châu thổ tưởng tượng cái sức mạnh ma quái của nước sông Hồng bằng những thần tượng như: Long vương, Hà bá, Thuỷ tề, Bạch xà, Thuồng luồng… khi hầu như không làm chủ được nó, và đôi khi còn lập đền thờ các lực lượng siêu nhiên ấy ở bên sông để mong kìm bớt cơn giận dữ khủng khiếp của nước lũ. Trong ký ức của nhiều người dân châu thổ Bắc Bộ vẫn còn in đậm hình ảnh những ngôi nhà đổ sụp khi sóng sông ào tới, từng cụm làng xóm trôi dạt, những gốc cổ thụ bật gốc cuốn đi trong cơn xoáy lũ, những bàn tay phụ nữ con trẻ chới với trong dòng nước đục ngầu gầm réo, đồng lúa ruộng màu bị cướp trắng trước cặp mắt ưá lệ đau đớn xót xa… Những con đê mồ hôi xương máu của biết bao người đã nhiều khi không chịu đựng được sức tàn phá của thuỷ thần. Có thể tạm thống kê: đời Trần Thái tông vỡ đê kinh thành. Năm 1269 vỡ đê Cơ Xá, và từ năm đó đến năm 1393 vỡ đê 16 lần- điển hình là trận vỡ đê Bát Tràng năm 1352. Năm1729 vỡ đê ngập lụt cả hai huyện Văn Giang, Văn Lâm. Đời Tự Đức vỡ đê Văn Giang 18 lần. Trận lụt năm Qúy Tỵ 1893, cả vùng đồng bằng Bắc Bộ chìm ngập trong nước bạc mênh mông… Nhưng đê vỡ, lại tiếp tục việc hàn đê! Hết đời này qua đời khác, người dân châu thổ không chịu đầu hàng lũ lụt, họ đã oằn mình ra để quai đê, hàn đê ngăn lũ không mệt mỏi… Không ít người ngày hôm nay vẫn còn lưu giữ trong ký ức của mình hình ảnh kinh hoàng của một thời:Tiếng trống ngũ liên thúc hối hả, tiếng kẻng canh đê, tiếng quát tháo của tuần đinh, cảnh nhốn nháo như ong vỡ tổ, những ngọn đuốc đỏ rừng rực từng đoạn sông, người dân châu thổ mồ hôi chan nước mắt chân cắm trong đất, tay ken vào nhau làm bức tường chắn sóng… Nhiều thế hệ cha ông đã đắp đê ngăn nước tràn vào làng mạc. Không kể tuyến đê trên các con sông khác, hệ thống đê sông Hồng riêng nó đã dài tới 1.650km. Đó là một công trình lặng lẽ mà vĩ đại không kém bất cứ một kì quan nào… Nhà thơ Võ Văn Trực đã viết về con đê ngàn đời ấy bằng những dòng như sau: “Hòn đất ở dưới tận cùng đáy đê là hòn đất đắp từ đời Lý. Hòn đất đắp trên cùng mặt đê là hòn đất đắp trong thời đại mới. Mười bốn mét chiều cao con đê là cả một bề dày lịch sử được kết dính bằng bùn, mồ hôi, nước mắt và máu. Cả khi trời quang mây tạnh, cả khi gió táp sóng xô, con đê kiên gan đứng im với một tình yêu thầm lặng! …” (Thượng nguồn và châu thổ, Nxb Thanh niên). Không biết đê dọc sông Hồng được đào đắp từ bao giờ, chỉ biết sử ghi chép đời Lý Nhân Tông năm Mậu Tí 1108 đắp lại đê Cơ Xá, như thế từ trước đã có đê và ngót 1.000 năm nhân dân đã tôn tạo thêm sự vững chãi của đê sông Mẹ dài trên 2000km! … Ngoài đê sông, dân ta còn đắp đê biển. Năm 1248, vua Trần Thái Tông khuếch trương việc trị thuỷ sông Hồng, hạ lệnh đắp một hệ thống đê gọi là đê Đỉnh Nhĩ, chạy từ đầu nguồn tới bờ biển phòng nước lụt sông Hồng và đặt chức Hà đê chánh, phó sứ trông coi đê điều. Nhưng Thăng Long vẫn không tránh khỏi bị lũ lụt, nhiều lần nước tràn vào Hoàng thành. Năm 1243 đê Đại La thành bị vỡ... Từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông), việc xây dựng đê điều ngăn nước mặn đã được tiến hành, cho đến thời Nguyễn Gia Long thì lần đầu tiên đạt tới độ quy mô lớn với Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ. Như vậy là, dòng sông, luỹ đê và công sức của con người đã tạo ra một vùng châu thổ rộng lớn đến một ngàn năm trăm kilômét vuông và hàng năm nhận được một lượng phù sa khổng lồ. ở đây, chúng ta lại cần nhắc đến P. Gourou, người tiên phong của ngành Nông dân học thế giới, một nhà khoa học Pháp rất am hiểu châu thổ sông Hồng và có cảm tình với người nông dân Việt nam, song ở một công trình viết về thổ nhưỡng Đông Nam Á, ông lại có một nhận định vội vàng: do việc đắp đê hai bên sông Hồng, phù sa không thể tràn lên các cánh đồng được, vì thế, “châu thổ đã chết trong tuổi vị thành niên của nó”! Nhưng Gourou không thể ngờ rằng, cảnh quan địa lý châu thổ vào những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI hoàn toàn không  phù hợp với lý thuyết và sự phỏng đoán của ông trong năm 1940. Ông cũng không thể hình dung được là sẽ có cả một hệ thống mương máng, đập tràn của các công trình đại - trung - tiểu thủy nông với nhiệm vụ dẫn thuỷ nhập điền và đưa phù sa sông Hồng vào những cánh đồng bất ngát. Nhiều nơi, hệ thống mương phai chính còn rẽ xương cá để đưa phù sa vào từng thửa ruộng nhỏ… Như vậy là tuổi thành niên của châu thổ vẫn còn đang phát triển với sức vóc phi thường của nó, thậm chí, châu thổ còn đang trẻ lại với màu xanh phủ kín các vùng miền. Sau Hiệp định Genève, miền Bắc chỉ có bốn hệ thống thuỷ nông tưới cho hai mươi vạn ha và tiêu cho hai mươi lăm vạn ha đã bị chiến tranh tàn phá; nhưng chỉ trong vòng hai mươi năm sau, nhiều công trình đại thuỷ nông mới đã được xây dựng: Bắc - Hưng - Hải, Chí linh - Nam Sách, Thuỵ Phương - Gia Thượng, bảy mươi vạn ha được nhận nước từ những công trình đó; còn vùng chiêm trũng Hà Nam Ninh, Hải Hưng đang được các trạm bơm điện tiêu úng… Nhưng công trình đại thuỷ nông Bắc - Hưng - Hải là một bước chuyển quan trọng đánh dấu thời kì mới trong cuộc chinh phục sông Hồng. Cho đến nay, công trình này và những công trình thuỷ lợi khác vẫn phát huy tác dụng của nó trong sản xuất nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng, với những chính sách khuyến nông ngày một mạnh dạn hơn của Nhà nước...

 

Nhắc qua về lịch sử lũ lụt và các công trình đắp đê chống lụt của dân tộc ta từ thời cổ đại cho tới nay để có thể thấy rõ hơn vị trí, vai trò và trách nhiệm của Lê Đại Cang khi cụ gánh trọng trách của một quan Đê chính Bắc thành lãnh đạo nhân dân chống chọi với hung thần lũ sông Cái!

 

Cụ Lê Đại Cang đã sống giữa một giai đoạn cực kỳ phức tạp của lịch sử; dấn thân vào chốn quan trường nhiều cám dỗ và đầy bất trắc, cụ đã chọn cho mình con đường “ngày đêm chăm chỉ, một lòng báo quốc… vì nước quên nhà, vì công quên tư” (Lê thị gia phả)  để có thể đem trí tuệ xuất chúng và tài năng đa diện của mình cống hiến cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đầy gian khó, lập nên một sự nghiệp lớn. Sự nghiệp ấy của Lê Đại Cang trải dài trong thời gian 41 năm làm quan qua 3 triều vua, trải rộng trong không gian cả ba miền đất nước từ biên giới cực Bắc đến biên giới cực Nam, từ kinh đô Huế đến cố đô Thăng Long, qua rất nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục, văn hóa, ngoại giao… Lặn lội suốt từ Nam chí Bắc, khi làm Cai bạ Quảng Nam, Cai bạ Vĩnh Long, quyền Tổng trấn Bắc Thành, Tổng đốc Sơn - Tuyên - Hưng, Tổng đốc Hà nội – Ninh Bình hay làm Tổng đốc hai tỉnh An Giang - Hà Tiên, ở đâu Lê Đại Cang cũng lo tìm đất hoang cho dân cày cấy, lo đào sông, khơi dòng chảy, tạo điều kiện cho dân canh tác nông nghiệp thuận lợi... Nhưng có một sự nghiệp lớn, sự nghiệp để đời của Lê Đại Cang mà trong Lê thị gia phả hầu như không kể, nhưng lại được chính sử triều Nguyễn ghi chép lại rất nhiều: đó là công việc của một quan đê chính ở Bắc Thành những năm 1828-1831, với sứ mệnh cao cả là "giữ dân và vệ nông"- như sớ cụ tâu vua mà sử có chép lại (Những tư liệu về giai đoạn làm quan Hộ đê này của cụ Cang đã được các nhà nghên cứu lịch sử dày công khảo cứu qua hàng ngàn trang thư tịch cũ, đặc biệt là hai nhà sử học: TS. Nguyễn Minh Tường và TS. Nguyễn Thị Phương Chi).

 

Dân gian còn lưu truyền: tại công đường Nha đê chính - ở cửa Nam thành Hà Nội, cụ Cang đã cho treo hai câu đối: "Đê tồn Cang tại - Đê hoại Cang vong" - bộc lộ rõ quyết tâm sống chết với đê của một vị quan liêm chính, cương trực, ý thức sâu sắc về công vụ, người đặt trách nhiệm tồn vong của đê - tức sự sống còn của Dân lên trên sự sống còn của bản thân mình. Thực cảm động, và quả là bài học thấm thía đối với những công bộc của Dân hôm nay!

 

Khi đảm nhiệm phụ trách việc đê điều ở Bắc Thành, Lê Đại Cang đã lặn lội đi khảo sát, gặp các bô lão nhiều kinh nghiệm khắp các vùng Sơn Nam, xứ Đoài, Kinh Bắc... Cụ đã quan sát kỹ lưỡng dòng chảy của các con sông lớn, nhỏ, tìm ra quy luật dâng lũ của chúng để tìm cách giãn lũ - ví như cụ đã cho giãn lũ sông Cái - Nhĩ Hà qua sông Đuống, ra sông Cầu, bằng sông đào Ngũ Huyện Khê. Cụ còn dày công biên soạn cuốn sách thống kê các đê công - tư, giúp việc quản lý và phòng hộ đê điều chặt chẽ hiệu quả hơn. Sự nghiệp đê điều gian nan khôn xiết, bằng tinh thần tận tụy, trí thông minh, lòng quả cảm, cụ đã cùng dân chúng nhiều vùng quê châu thổ sông Cái - Nhĩ Hà xả thân đắp đê, sửa đê, ngăn được lũ lụt tàn phá làng mạc. Vua phê và khen rằng: “...nước sông lên to, mà đê phòng đều được vững chắc, thực nhờ phúc thần nhiều lắm”. Thực ra, Phúc thần ở đây lại chính là Quan hộ đê Lê Đại Cang, người bốn lần được trọng thưởng, ba lần bị phế chức, người trong hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng không rời bỏ chức phận giữ dân và vệ nông. Và cho đến nay, một số vùng quê ven sông Hồng vẫn đang thờ cụ như một phúc thần thành hoàng làng, mà nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử hôm nay cần phải tìm cho ra những di tích đặc biệt đáng quý này.

 

Là một người làm phim, tôi đặc biệt “mê” giai đoạn này của cụ Lê Đại Cang, thời mà vị quan văn võ toàn tài quê Bình Định đã kết mối lương duyên với người phụ nữ xinh đẹp dòng dõi nhà vua là quận chúa Lê Ngọc Phiên, rồi cùng bà vượt qua bao sóng gió hiểm nguy, để sau đó cụ trở thành một Quan hộ đê Bắc thành đáng kính trọng vào bậc nhất trong lịch sử dựng nước của Dân tộc ta, được dân lập đền thờ hương khói đời đời...

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười 20193:08 CH(Xem: 16698)
Ngày 31/07/2019 chính phủ Lào chính thức gửi hồ sơ tới Ủy Hội Sông Mekong / MRC về dự án xây con đập dòng chính Luang Prabang với yêu cầu tiến hành thủtụcPNPCAba giai đoạn: (1) Thủ tục Thông báo / Procedures for Notification, (2) Tham vấn trước / Prior Consultation, (3) Chuẩn thuận / Agreement. Thay vì ra thông báo ngay,MRC đã trì hoãn 7 tuần lễ saumới đưa ra thông cáo báo chí về sự kiện này.Đến ngày 25/09/2019, MRC đãbào chữa cho quyết định im lặng 7 tuần lễ với lý do: “Thông báo của Lào gửi tới chưa đầy đủ để có thể tiếp cận với phần tổng quan của dự án / project overview và lộ trình tham khảo / roadmap for consultation, giúp quần chúng hiểu tốt hơn về dự án và tiến trình tham vấn.” Cũng vẫn ban Thư ký MRC giải thích tiếp,“Học được từ kinh nghiệm, lần này chúng tôi có kế hoạch thông báo chính thức khi có đủ những tài liệu cần thiết để quần chúng và các bên liên quan / stakeholders có thể khảo sát và đóng góp ý kiến cho tiến trình tham vấn thêm ý nghĩa.
27 Tháng Chín 20199:49 CH(Xem: 16616)
Cho dù tên tuổi TNS Jim Webb đang được sôi nổi nhắc tới qua sự kiện lễ vinh danh và an táng 81 bộ hài cốt các tử sĩ Nhảy Dù VNCH vào 26/10/2019 sắp tới – cũng là ngày Quốc Khánh của nền Đệ Nhất Cộng Hòa VN – nhưng với người viết thì Jim Webb còn là một khuôn mặt nổi bật trong giới lập pháp Hoa Kỳ từ hơn một thập niên trước, như một advocate có tiếng nói mạnh mẽ bảo vệ con sông Mekong và cư dân lưu vực:“Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới có một cam kết chiến lược và nghĩa vụ tinh thần nhằm bảo vệ sức khỏe và an sinh của cư dân sống phụ thuộc vào con sông Mekong với nguồn tài nguyên và nếp sống của họ.”Senator Jim Webb’s Press Releases 12/ 08/ 2011.
23 Tháng Tám 20199:39 CH(Xem: 16833)
Vậy mà đã 62 năm kể từ khi Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy Ban Sông Mekong [1957] và cũng đã 24 năm từ ngày thành lập Ủy Hội Sông Mekong[1995]. Tính đến nay 2019, Bắc Kinh đã xây xong 11 con đập thủy điện khổng lồ / mega-dams (6,7) chắn ngang dòng chính sông Lancang Jiang, tên Trung Quốc của con Sông Mekong chảy trong lãnh thổ TQ với lượng điện sản xuất đã lên tới 21,300 MW và TQ vẫn đang tiếp tục xây thêm 19 con đập khác; Thái Lan ngoài các con đập phụ lưu, còn có kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong, và nay hai nước Lào và Cambodia còn có thêm dự án 12 đập dòng chính hạ lưu. Ngoài ra còn hàng trăm con đập phụ lưu đã và đang xây trên khắp lưu vực Sông Mekong, kể cả trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam.
23 Tháng Tám 20197:53 CH(Xem: 17549)
Cách đây không lâu, tôi đọc được bài viết “Ảnh hưởng của thơ Đường đối với thơ mới” của TS Nguyễn Xuân Diện và Trần Văn Toàn trên Tạp chí Hán Nôm số 3 (36) năm 1998, trang 46-53, đăng lại trên blog của tác giả Nguyễn Xuân Diện (http://nguyenxuandien.blogspot.com/2010/10/anh-huong-cua-tho-uong-oi-voi-tho-moi.html). Phải nói đây là một bài viết công phu, tuy chưa lý giải thấu đáo đến mọi khía cạnh của vần đề. Một số vấn đề cần có sự trao đổi thêm. Trước mắt, tôi xin có một vài nhận xét.
03 Tháng Tám 201910:10 CH(Xem: 17441)
Khi cuộc đấu tranh giành quyền con người đang xảy ra tại Hồng Kông, khi những tinh hoa của phong trào dân chủ ở xứ sở này đang làm cả thế giới ngưỡng phục, khi hầu hết người VN cũng đang hướng về cuộc đấu trí ngoạn mục của người dân Hồng Kông với tất cả lòng ngưỡng mộ, tôi muốn nhắc với chúng ta về một người con gái của đất nước mình. Ngày hôm nay, ở Trà Vinh có một mái nhà nho nhỏ đang ấm lên vì được đón cô trở về.
16 Tháng Bảy 201911:23 CH(Xem: 19226)
Lần đầu được đọc tập ký hoàn chỉnh của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, một tác giả người Việt hải ngoại, tự nhiên trong đầu tôi nảy ra sự so sánh với hàng ngàn vạn bài ký “mậu dịch” của hơn tám trăm tờ báo dưới sự chăn dắt của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hóa ra, đó toàn là những sản phẩm đồng phục được chế tác bởi những tác giả, qua sự đào luyện của hệ thống trường ốc, trong đó, cá tính đã được mài nhẵn, tư tưởng được kiểm soát chặt chẽ, mọi phản biện xã hội đều bị giới hạn trong phạm vi cho phép, vì thế, cái gọi là ký ấy chỉ là những văn bản véo von ca ngợi, tự sướng của những cây bút thủ dâm chính trị, tự huyễn hoặc mình. Loại báo chí ấy chẳng những không có lợi, mà trái lại, rất có hại, bởi nó thực chất là dối trá, lừa phỉnh nhân quần.
12 Tháng Sáu 20196:05 CH(Xem: 20369)
Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802-1804), trong Thanh Hiên thi tập.(1) Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất, và kỳ lạ bậc nhất của Tố Như, khi ông chưa tới tuổi “tam thập nhi lập.” Hay và kỳ lạ, song xưa nay nó mới chỉ được điểm qua, chưa hề được phân tích bình giải một cách thấu đáo. (Trong khi, bài Độc Tiểu Thanh ký xếp liền sau đó lại được khai thác khá kỹ trong hàng chục bài viết - ở các bậc phổ thông, đại học và nhiều diễn đàn văn chương). Có lẽ, bởi tính chất kỳ lạ và trừu tượng đến khó hiểu của nó?
15 Tháng Năm 20195:35 CH(Xem: 23978)
Trên vạn dặm Trung Hoa, trong số những di tích lịch sử tôi có dịp được tham quan, có lẽ đền thờ Nhạc Phi nằm ở chân núi Thê Hà cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang là di tích để lại cho tôi nhiều ấn tượng khó quên hơn cả. Đặc điểm nổi bật nhất trong kiến trúc của khu đền là giữa không gian rộng rãi, có khu mộ Nhạc Phi cùng con trai Nhạc Vân, đối diện là bốn bức tượng sắt quỳ nhốt trong cũi sắt, đã tạo nên nét đặc sắc chưa từng thấy trong các di tích lịch sử ở Trung Quốc cũng như trên thế giới… Hơn hai trăm năm trước, đại thi hào Nguyễn Du đã tới nơi này, để lại 5 bài thơ chữ Hán vịnh sử bất hủ về Nhạc Phi và những kẻ thủ ác hãm hại người anh hùng của đất nước Trung Hoa cổ đại.
14 Tháng Năm 20199:20 CH(Xem: 20895)
Bài thơ: “Cúng Dường” của thiền sư, thi sĩ Tuệ Sĩ đã được nhiều giảng sư, luận sư, triết gia chuyển dịch, tất cả đều dịch rất sát, rất hay, nhưng trên ý nghĩa của mặt chữ, đã khiến dư luận cảm thương, tội nghiệp khi đọc thi phẩm này, mà theo tôi, sự giải thích sát nghĩa như vậy đã ngược lại hoàn toàn tính hùng vĩ và đại bi tâm của nhân cách tác giả và thi phẩm.
13 Tháng Năm 20198:54 CH(Xem: 19393)
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình trung nông lớp dưới. Bố Huy Cận đậu tam trường làm hương sư ở Thanh Hoá, sau về quê dạy chữ Hán và làm ruộng. Mẹ Huy Cận là cô gái dệt lụa làng Hạ nổi tiếng ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ.