- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Ly Hoàng Ly Và Bóng Đêm

26 Tháng Mười 200812:00 SA(Xem: 20788)

 Ẩn dưới cái tên ngây thơ Lô Lô là tập thơ dầy đặc bóng đêm của người con gái gốc Bắc Ninh sinh năm 1975 tại Hà Nội. Cha làm thơ. Mẹ tảo tần nuôi con những ngày người cha lâm nạn chữ. Bắc Ninh và đêm cũng là địa chỉ Hoàng Cầm thời Về Kinh Bắc, nhưng khi ấy Lô Lô chưa ra đời, nên Lô Lô nào biết Hoàng Cầm là ai, nào biết người cha vì “liên hệ” với Kinh Bắc mà đã đánh mất mùi mình (1) trong sàn đá, để suốt đời mang mặc cảm thạch sùng (2).

Những điều trên đây dường như không liên hệ, không còn liên hệ gì đến lớp trẻ sinh sau 75, đặc biệt những người con gái vô tư cười như mùa thu tỏa nắng (3). Vậy mà có. Lại có rất nhiều. Những sợi dây, những vết trói, những oan nghiệt, những sự tình trong quá khứ, thế hệ sau không tham dự, không biết: Lô Lô sinh ra chiến tranh đã hết, Lô Lô được nuôi bằng sữa hoà bình. Vậy mà chất độc da cam của bạo lực và áp bức vẫn chi phối hầu như toàn bộ vô thức sáng tạo của Ly Hoàng Ly. Chúng trộn vào đêm, vào những đêm trắng, đêm xuyên ngày của Ly, chúng len lỏi trong những bức chân dung phụ nữ bị trói gô, bị kẹp, cắt, qua những bức sắp đặt (installation), trong tranh trừu tượng, trong nghệ thuật trình diễn (performance) của Ly Hoàng Ly.

Hìnhthơ đi đôi trong tập Lô Lô: một thế giới trống mở ra biển vắng.

Trang 21, bức sắp đặt với những khung cửa lệch lạc, cánh bung tan, chôn xuống cát, như có bàn tay vô hình đã phá tung cửa. Để làm gì? Đi đâu? Ra biển chăng? Chắc thế. Bởi chỉ biển, chỉ còn biển trước mặt. Và con người phải ra biển, con người đành ra biển, con người bèn ra biển, con người bị chìm xuống biển, mất hút: mọi sự đoán, đọc, hiểu, đều khả thể trước bức hình này: một trong những bức sắp đặt đầu tiên của Ly Hoàng Ly.

Trang 55: một người ngồi xổm trên thánh giá, băng bó cùng mình, bao nhiêu kẹp phơi quần áo găm khắp châu thân, nàng là một:

người phụ nữ tự trói mình.

Trong tư thế trói gô

Người phụ nữ không tìm thấy xác mình

Chỉ thấy rêu xanh lét chân tường

Chỉ thấy đêm đầm đìa nước mắt...

(Performance photo)

Đó là thế giới của Ly Hoàng Ly: một thế giới phụ nữ tự trói. Con người băng bó. Toàn thể đã bị thiêu rụi từ bên trong. Một thế giới phỏng rộp ở cấp độ nặng nhất. Vài vật dụng tầm thường: một cuốn băng, mấy chiếc kẹp gỗ phơi áo đủ cho Ly tạo ra vũ trụ kinh hoàng: vữa nát thân thể, kìm kẹp tâm hồn.

Người con gái Kinh Bắc có cái nhìn xa, suốt:

Trang 16: Ly ngồi trên ghế, bốn phía vây quanh là dây, dây chăng kín, dây thòng lọng từ trên xuống như chiếc võng dọc, dây bao bọc bốn bề, gợi lại những câu thơ Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc:

thòng lọng tơ gì cuốn gót..

không trói mà không đi...

kià dây muống dại kín em rồi...

Nhưng đâu đã chắc Hoàng Ly nghĩ về Hoàng Cầm hay chỉ là sự tương hợp. Hay đây là những sợi dây có sẵn từ khi Ly chào đời, những sợi dây cuốn tròn hiện tại, những sợi dây bao bọc không gian, sống không còn ngày, ngày đã bị chăng màn, ngày bị dây chằng tứ phiá, ngày đã thôi sáng, ngày đã thành đêm. Đêm Ly.

Lô Lô là những khúc đêm như thế, bắt đầu bằng đêm thứ nhất, mở ra trên bức sắp đặt tuyệt đẹp.

Trang 6: mang tên Khúc đêm. Khúc đêm là một vùng tranh tối tranh sáng, có bức tường ngăn cách không gian bên trong với ánh mặt trời bên ngoài: một bức tường mâm. Những chiếc mâm móc liền với nhau bằng dây xích, có nhiệm vụ thanh lọc và phản hồi ánh sáng, chỉ để lọt một tí vào bên trong. Trên bức tường mâm, lác đác mấy thân thể phụ nữ bị đóng đinh, bị ghim, bị trói, hình như họ đang tập “nhảy vọt”: những thân đàn bà treo lơ lửng như ta treo tranh trong phòng triển lãm. Khúc đêm mời bạn bước vào Đêm của Ly, vùng tranh tối tranh sáng của nghệ thuật và cũng là vùng của những phụ nữ bị treo, bị cắt, bị kẹp, bị kết án “im không nói”, trong một không gian sống rất ít ánh sáng, mọi người ở đây đã chấp nhận im im không nói đi trên phố đông. Im im không nói đi trên phố ồn.

Vùng đêm của Ly Hoàng Ly mang nhiều chất trí tuệ, đầy khủng hoảng, Ly cho trừu tượng trôi vào cụ thể, để cụ thể chuyển sang trừu tượng nhẹ nhàng như cái vẫy tay, như hơi thở nhẹ, như giọt nước mắt:

Kià đêm chảy

Chảy lên trời

Buốt óc tôi

Kià đêm chảy

Chảy lên trời

Máu tuột khỏi tim

(trích Đêm chảy lên trời).

Trong những hình thức khủng hoảng như khủng hoảng chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, khủng hoảng chính trị, đáng ngại nhất là khủng hoảng tinh thần. Đêm chảy lên trời, máu tuột khỏi tim là những khủng hoảng đặc dị tâm thần, khiến người đọc giật mình, không hiểu tại sao người con gái có nụ cười “toả nắng” như Ly, lại viết những câu thơ đớn đau, buốt xót đến vậy.

Đêm đem em vào đen

Đen đem em vào đêm

Đêm đem đen vào em

Em đem đêm vào đen”

(trích Ngoặc đơn trong đêm).

Vẫn đêm trong bốn câu thơ viết theo nhịp độc âm này, với ba đồng âm: êm, emen Ly tạo nhịp, tạo dịu dàng âu yếm, tạo vùng tối đặc của các sinh thể đen. Lô Lô mang không khí đêm đen giữa ban ngày, là những cơn ác mộng thường trực của con người bị kết án chung thân sống trong đêm, những con người “muốn đập đêm vỡ tan”; nhưng đêm như ung thư, đêm như bạch tuộc đã chạy cùng khắp cơ thể, và người con gái ấy:

“Soi vào gương

Bất lực và khóc

Trong vô vàn những giọt nước mắt

Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực trắng”

(Mở nút đêm).

Nàng không chặn nổi đêm, bởi đêm đã len vào khắp các ngõ ngách sống, vào toàn bộ mạch máu của thân thể, buốt rát, xót xa:

 

“Đêm đã nhuốm màu lên làn da em

Lên đôi mắt vòng vòng một quầng đêm

 

Đêm đã nhuốm màu lên đôi bàn tay em

Để em không thể nhìn thấy anh

Bằng xúc giác

 

Đêm đã nhuốm màu lên chiếc lưỡi của em

Để em không thể nhìn thấy anh

Bằng vị giác

 

Đêm đã tràn vào từng sợi thủy tinh của chiếc đền vàng

Và khe khẽ hát

Để em không thể nhìn thấy anh

Bằng thính giác”

(Đêm và anh)

 

Đêm của Ly choán dần không gian, độc chiếm bàu trời, đêm là chất lỏng, đêm đặc thịt da. Nhưng trong những vùng đêm, vùng đen ấy, người con gái vẫn tìm cách thở, nàng thấy dưỡng khí trong một vùng mộng tuyệt vời:

Vườn co vào lá

Hoa ôm đêm đến rũ xác

Em đi nhặt xác hoa

Bước vào vùng trăng

Toàn thân lấp lánh dịu dàng

Cả một ước mơ gửi vào vườn đêm

Cây hoàng lan chìa cánh mềm

Buốt ánh mắt em

Hương hoàng lan xanh óng dưới trăng

Buốt hơi thở em

Vườn co vào lá

Đợi đêm lên tới ngọn

Lên tới ngọn của đêm

Lấy xác hoa

Xoa vào trăng

Trên ngọn đêm.

(Đêm trong vườn)

Đêm trong vườn mang dư âm một bản nhạc Dương Thiệu Tước: “Vườn khuya trăng chiếu hoa đứng im...”, nhưng không chắc gì Hoàng Ly đã chịu ảnh hưởng nhạc Thiệu Tước và thơ Hoàng Cầm; bởi thế hệ Ly không còn nghe nhạc Dương và không chắc có đọc thơ Hoàng. Bài thơ của Ly có những chìa khoá khác, mở vào những thầm kín khác, nằm ở hai chữ cobuốt.

Vườn co vào lá.

Buốt hơi thở em.

Buốt ánh mắt em.

Vườn co vào lá là một thực tại ảo, chỉ có trong tâm thức nhà thơ, nhưng tại sao: vườn lại co vào? co vì sợ, co vì lạnh? mà co vào đâu? co vào lá, tức là co vào chính các tế bào sống của mình. Vườn co vào lá, tựa như Ly co vào máu của Ly, như Ly co và tim Ly, như Ly co vào hơi thở Ly, một sự co vào rất tế nhị, rất nhục cảm, rất thể xác, rất đớn đau, rất hãi hùng, mà nhẹ như không.

Rồi lại không biết có phải cảm giác co ấy dẫn đến cảm giác buốt hay là vì buốt hơi thở em, buốt ánh mắt em mà em co lại? Vẫn rất sensuel, vẫn đầy nhục cảm, lần này bởi những chữ hơi thởánh mắt. Thường thì hơi thở và ánh mắt là những nơi phát tiết nhục cảm, là chủ thể của nhục cảm, nhưng ở đây chúng bị chữ buốt chi phối, tức là chúng bị truất quyền làm chủ, và khi một thực thể bị truất quyền như thế bao giờ cũng gây thương tích, gây tác dụng mạnh, làm cho một chữ buốt trở thành trăm nghìn lần buốt. Cho nên trong buốt hơi thở em, buốt ánh mắt em, “hơi thở” và “ánh mắt” đã đưa độ buốt của thân thể lên đến mức hãi hùng, làm cho thân thể phải co lại, co vào lục phủ ngũ tạng của chính mình.

Sau này, người ta có thể quên những bài thơ khác của Ly, nhưng những câu thơ hay như thế sẽ tồn tại. Một đời thơ thường rồi sẽ chỉ giữ lại được vài câu thơ hay, vì thế thơ hay không cần nhiều.

Một bài khác, bài Cắt, trong bài này, Ly mới chỉ thành công một nửa, bởi ý thì rất hay, nhưng chữ chưa thuần thục:

Cắt đêm ra từng mảnh nhỏ

Rồi khâu đêm lại bằng tóc

Tóc thưa dần thưa dần

Những đường rãnh trắng hếu đưa ta đi hết đêm này đến đêm khác

Cho đến khi đầu trọc

Cắt ta ra từng mảnh nhỏ

Rồi khâu ta bằng hết đêm này đến đêm khác

Cho đến khi trắng hếu đêm.

Nhược điểm của bài thơ cũng là nhược điểm chung của một số nhà thơ muốn làm cho thơ rõ nghiã. Không cần. Những liên từ như rồi, ra, cho, đến, trừ trường hợp đặc biệt, không cần thiết cho thơ. Chúng rườm. Chúng làm cho thơ bị ràng buộc. Bị rõ. Bị lộ. Mà thơ càng kín đáo, càng đạt sự độc lập lớn, càng hay: Lê Đạt có kinh nghiệm sâu xa về điều này. Thơ Đường muôn thủa là một trong những đỉnh cao của thi ca nhân loại, bởi mỗi chữ trong thơ Đường đã đạt tới độ độc lập gần như tuyệt đối. Khi dịch thơ Đường sang tiếng Việt, người ta thường thêm giới từ, liên từ, để làm thành một câu thơ dễ hiểu, biến câu thơ mông lung nhiều nghiã trở thành câu thơ giản đơn một nghĩa. Biến cái đa nghiã thành độc ý.

 Trở lại với bài Cắt của Ly, hai câu đầu: Cắt đêm ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu đêm lại bằng tóc. Thử bớt đi những chữ: ra, nhỏ, rồi, lại, câu thơ sẽ bớt rườm hơn và đa nghiã hơn: Cắt đêm từng mảnh/ Khâu đêm bằng tóc.

Ý tưởng “cắt đêm từng mảnh”, lấy từng sợi tóc khâu đêm cho đến trọc đầu trong bài thơ là những ý táo bạo, độc đáo về sự hoảng loạn đến độ điên dại của con người. Kawabata kể chuyện một ông già, tóc bắt đầu bạc, có sợi nào bạc nhú ra là ông nhổ tiệt, nhổ đến trọc đầu. Tóc mới mọc bèn chịu thua: đổi trắng thành đen, nhưng đã muộn quá, người ta đã đưa ông cụ vào viện tâm thần.

 Tình thế “trốn già” của ông lão thật xúc động. Nhưng ở một nhà thơ trẻ như Ly Hoàng Ly, sự cắt đêmlấy tóc vá đêm lại cho đến trọc đầu, có cái gì bi đát hơn, bởi nó quá mới, quá trẻ, bởi nó không từ tuổi tác, mà từ những nhận thức đớn đau về hiện thực xung quanh, về những khủng hoảng chồng chất đã qua, của một Hoàng Cầm hoảng loạn, của một Hoàng Hưng mất ngủ, của một ai kia không biết... Chính cái kinh nghiệm buốt xót về sự khủng hoảng tâm thần của người lớn đã lây sang tuổi thơ, dồn ép trong tâm thức cô bé Kinh Bắc, trốn vào tiềm thức, lớn dần thành thơ, chín dần trong ba mươi năm cho đến khi Lô Lô ra đời.

 Người đàn bà và căn nhà cổ, là bài thơ viết theo nhịp hiện thực huyền ảo, cũng là tự truyện của một bé gái từ lúc còn là bào thai nằm trong bụng mẹ: người mẹ quyết vượt đêm, quyết sống còn trên những gián giun, vi khuẩn, để con mình được chào đời, mong nó sẽ rửa sạch không gian bụi bặm, nhiễm trùng đã tiêu diệt mình.

 

Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

Trên chiếc ghế bọc nhung lành lặn duy nhất (...)

 

Tường ố mưa đêm bao năm

Màu vàng lên rêu mốc

Mưa điên cuồng bên ngoài

Đòi trút vào nhà cổ những u uất

 

Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

Buồn thảm và kiên định

 

Những con vi khuẩn bám trên từng hạt bụi

Nghe ngóng sự sinh sôi ẩm mốc

Dưới gầm chiếc phản lên nước như gưong soi

Là đêm của thế kỷ trước

Dưới gầm chiếc phản lên nước như gương soi

Lũ gián khua râu hà hít.

 

Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

 Giữ đứa con trong bụng tư thế ung dung và thách thức

 Những con gián túa ra từ gầm phản

 Bắt đầu gặm nhấm chiếc ghế lành lặn

 

 Người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân

Hút cạn mắt một đêm

Từ từ rã xác

Hút cạn mắt nghìn mưa

Nhà cổ ngập tiếng khóc

 

Oe Oe Oe

 Nhà cổ rùng mình thức giấc

 Lũ gián bò toán loạn trên chiếc áo dài rũ trắng sàn gạch

 

Đứa bé gái mặc áo dài trắng nhẹ nhàng tụt xuống từ chiếc ghế bọc nhung duy nhất lành lặn

Mắt tròn trong vắt

Đi một vòng ngơ ngác

Sờ tay lên lò sưởi và cửa sổ và tường và mọi thứ ẩm mốc

Thấy tay đầy vi khuẩn

 

Bàn tay màu xám ngắt

Vặn núm cửa bước ra đêm mưa bão bùng

 

Cánh cửa dày đặc văn tự cổ sập lại sau lưng

Khi ấy đêm vụt tắt

Những hạt nắng như mưa rơi rơi không dứt

Rửa sạch bàn tay bụi bặm.

(Người đàn bà và căn nhà cổ)

 

Bài thơ có cấu trúc đoản, mỗi khúc nối nhau bằng hình người đàn bà mặc áo dài trắng ngồi bắt chéo chân trong ẩm mốc, căn nhà cổ có tự bao giờ? Nàng không nhúc nhích, nàng bị vây kín, bị tấn công, mọi mặt, quá khứ u uất, hiện tại vi khuẩn, nàng ngồi bắt chéo chân kiên trì chống trả trong yên lặng cho đến hơi thở cuối cùng. Nàng, người mẹ ấy đã nát thân, tan xác cho gián gậm, quyết bảo toàn đứa con trong bụng, đẩy bọn dán giun không đục khoét được bào thai. Nàng hy sinh cho con chào đời: một đứa bé gái. Người đàn bà hút cạn mắt một đêm từ từ rã xác, hút cạn mắt nghìn mưa, những hình ảnh ghê gớm, phả đến từ một thế giới khác để đối chất với một hình ảnh cực kỳ trong sáng “đứa bé gái mắt tròn trong vắt” của hôm nay.

 

Gia tài của mẹ để lại cho con, trong thơ Ly Hoàng Ly, không phải là một nước Việt buồn, như trong thơ Trịnh, mà còn đớn đau chua xót hơn: đó là cơn ác mộng triền miên, là bóng đêm dày đặc, là căn nhà cổ đầy vi khuẩn, là núi văn tự ẩm mốc, là không gian bão tố. Sáng trưa chiều tối là đêm.

Một mình, người con gái Kinh Bắc ấy, làm sao có thể biến đêm thành ngày?

 

 

Chú thích:

 (1) và (2) thơ Hoàng Hưng

(3) thơ Hoàng Cầm

Thụy Khuê
Paris, tháng 2/2006

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Mười 202011:10 CH(Xem: 14333)
Trung uý Bá đã biểu lộ lòng can đảm phi thường, bất chấp nguy hiểm cho sinh mạng mình và chỉ quan tâm tới những người bệnh, với kết quả là ông đã cứu được nhiều mạng sống. Những hành động dũng cảm của Trung uý Bá phản ánh phẩm chất lớn lao của bản thân ông và của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Lieutenant Ba’s singularly impressive display of courage, utterly disregard for his own safety, and his overriding concern for his patients resulted in the saving of many lives. First Lieutenant Ba’s heroic actions reflect great credit upon himself and the Army of the Republic of Vietnam. [ BA, DOAN VAN 57/208029 1LT of the Republic of Vietnam: Awarded Bronze Star Medal with “V” Device, Headquarters US MACV, 20 May 1968 ] (1)
08 Tháng Chín 202010:19 CH(Xem: 15238)
Để mô tả nghành tư pháp nước ta hiện nay, xin được dẫn bằng nỗi lo sợ sâu thẳm trong lòng người dân VN qua câu nói của cựu Uỷ viên Bộ chính trị Đinh La Thăng trước toà: “ Xin hãy đối xử với bị cáo như số phận một con người !”
31 Tháng Ba 20207:18 CH(Xem: 17328)
NGÔ THẾ VINH Lời Dẫn Nhập: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sau khi hoàn tất bộ sách đồ sộ “Cây Cỏ Việt Nam” mà Giáo sư gọi là “công trình của đời tôi" và vào mấy năm cuối đời, như một Di Chúc, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho: “Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước. Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh. Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
02 Tháng Ba 202010:07 CH(Xem: 17091)
- Nguyên Ngọc chủ “Văn đoàn độc lập” đã trao nhiều giải thưởng thơ quá tầm phào, vô nghĩa, thậm chí bậy bạ, nhảm nhí, phá hỏng thẩm mỹ tiếng việt phá hỏng thẩm mỹ thi ca chân chính - Hữu Thỉnh chủ tịch hội liên hiệp văn học nghệ thuật VN, chủ tịch hội nhà văn VN do chủ quan, trình độ văn hóa kém cỏi, trình độ thẩm mỹ thi ca bệnh hoạn và nhảm nhí cũng đã trao giải thưởng văn học cho hàng chục tập thơ dở, thơ vô nghĩa, thơ tầm phào…
22 Tháng Hai 20204:40 CH(Xem: 17157)
20 triệu cư dân ĐBSCL, phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng. Với tầm nhìn qua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là hình ảnh khúc phim quay chậm / slow motion của một con tàu đang đắm. Một cái chết rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh – lớn thứ 11 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả một vùng châu thổ ĐBSCL đang từ từ bị nhấn chìm.
16 Tháng Hai 20203:57 CH(Xem: 16254)
Việt tộc, nếu tính từ khi lập quốc tại Phong Châu, trong vài ngàn năm tiến về phương Nam, hiện tiếp tục ra đi tới khắp các nẻo đường thế giới, đã tiếp cận hầu hết các nền văn minh nhân loại. Từ hậu Lê, suốt 500 năm biến động đầy sóng gió, với tình hình hiện nay, có thể xem như chúng ta đang ngày càng rời xa khỏi đạo thống Tiên Rồng trải từ thời Hùng Vương đến hai triều đại Lý-Trần, giờ lại còn bị đe dọa tiêu diệt bởi chủ thuyết Mác-Lê. Việt Nam tuy được xem như đã hội tụ hầu hết các tôn giáo và các nền văn minh lớn trên thế giới (Phật, Lão, Khổng, Cơ đốc; Hoa, Ấn, Tây), chúng ta vẫn chưa định hình được một nền văn hoá đặc thù làm nền tảng nhằm thoát Trung, bỏ Cộng để xây dựng đất nước.
16 Tháng Hai 20203:47 CH(Xem: 15737)
Khởi đầu một năm mới đầy biến động, trước anh linh người vừa khuất tôi xin được dâng lên lời cầu nguyện. Nguyện cho mỗi chúng ta từ nay sẽ không là kẻ vô can và ngưng đóng vai khán giả. Bởi tất cả chúng ta dù đang ở vị trí nào hay sinh sống ở nơi đâu đều gắn kết cùng nhau chung một số mệnh - Số mệnh của dân tộc Việt Nam.
25 Tháng Giêng 202011:50 CH(Xem: 16174)
Rồi nhìn về phía Nhà nước, với bao nhiêu công trình xây cất lãng phí hàng tỷ USD, điển hình như cống đập Cửa Ba Lai và các hệ thống ngăn mặn cùng khắp ĐBSCL, có thể nói là một thất bại toàn diện. Sau bài học thất bại của cống đập Ba Lai, và rồi sắp tới đây, là một công trình khác lớn hơn thế nữa: Cái Lớn Cái Bé. Nhà nước nên có sáng kiến thực tiễn hơn: dùng số tiền tỷ USD ấy để xây dựng những dự án thật sự công ích. Khởi đầu là một tỷ USD cho xây một nhà máy khử mặn / Desalination Plant, một tỷ đồng khác xây dựng một nhà máy thanh lọc nước thải / Waste Water Treatment Plant, đó là những gì khẩn cấp nhất mà 20 triệu cư dân ĐBSCL đang thiếu nước ngọt giữa cơn hạn ngập mặn và nguồn nước ô nhiễm trầm trọng như hiện nay. Đó mới thực sự là bước công nghiệp hoá chứ không phải với những túi nhựa chứa nước ngọt đang bán ra cho nông dân mà vẫn được gán cho danh hiệu Công trình Khoa Học & Công Nghệ Cấp Nhà Nước.
23 Tháng Giêng 202012:07 SA(Xem: 15855)
Tiếng khóc ai oán của chị Nhung con cụ Lê Đình Kình - người bị lực lượng cưỡng chế giết chết ở Đồng Tâm - như một nhát dao xuyên suốt tất cả trái tim những ai lắng nghe nó. Cho dù họ là người của chính quyền hay các nhà hoạt động, những người khác hẳn nhau về chính kiến.
14 Tháng Giêng 20205:59 CH(Xem: 16288)
Bài viết này gửi tới 92 vị Đại biểu Quốc hội của 13 tỉnh Miền Tây, mà chúng tôi kỳ vọng quý vị như một toán đặc nhiệm – task force, trong quyền hạn có thể phản ứng nhanh, tạo bước đột phá, tránh được một sai lầm chiến lược trong lưu vực sông Mekong và cả cứu nguy ĐBSCL – vùng mà các vị đang đại diện.