- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Đồng Đức Bốn Và Chất Hoang Dại Trong Thơ

24 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 22512)
image006
Đồng Đức Bốn
Chi tiết vốn tối cần trong văn xuôi ,đấy là điều đã được nhiều người ghi nhận . Còn làm thơ thì không vất vả thế , ở đây sức ép của các chi tiết mà các nhà văn xuôi thường phải chịu ,– sức ép ấy không mạnh , và người ta đỡ lo hơn . Thế nhưng xin đừng ngộ nhận là không quan trọng . Ngược lại không phải cốt nói một điều giật gân hoặc để trộ đời , khi bảo với nhau : chính vì ít , mà chi tiết trong thơ lại càng cần được lưu ý . Qua các chi tiết đã có thể thấy ngay diện mạo một con người.

Tôi càng thấy rõ hơn điều này khi đọc Đồng Đức Bốn ( dưới đây viết tắt là Đ Đ B ).

Thử làm một cuộc thống kê những từ ngữ thường xuyên trở đi trở lại trong thơ Bốn . Toàn những rạ rơm, cây cải , hoa dong riềng , bờ tre, bụi dứa , mùa sen , vườn cau , bụi tầm xuân, múi bưởi đào, dây tơ hồng , mảnh sành , gai rào . Thiên nhiên ở đây là chớp bể mưa nguồn , là bèo dạt mây trôi rồi con gió chen ngang , rồi gió giông bão tố. Còn con người thì quẩn quanh với những việc chăn trâu đốt lửa , lên chùa , đón hội , đánh bạc ; hết tìm cái vu vơ họ lại tính chuyện không đâu , mà dù có bán buồn mua vui thì chẳng qua cũng chỉ chín xu đổi lấy một hào .

Còn nhớ có lần một nhà thơ trạc tuổi bọn tôi tự hào khoe là vừa đưa được chi tiết xe hồ lô trộn bê tông vào thơ và ra cái điều vậy là thơ hiện đại lắm . Đưa được một vài chữ Hán lạ hoặc vài tiếng Anh đọc theo âm Việt , người ta thấy thơ mình sang hẳn lên . Học mót được vài thuật ngữ lấy từ các ngành khoa học , hý hửng như tìm được miền đất mới . Theo những cách tính toán kiểu ấy thì Đ Đ B và những người yêu thơ Đ Đ B hẳn xin chịu . Hình như anh đã làm một cuộc vận động ngược , tức là luôn luôn tìm cách trở lại với những từ ngữ đã quá quen thuộc của đời sống .

Vả chăng trong cuộc trở lại ấy , điều quan trọng là người ta tìm thấy cái gì .

Tôi muốn nói cái tinh thần của đời sống nó toát ra từ thơ từ nhiều bài thơ của Đ Đ B : Cổ sơ . Cũ kỹ . Quê mùa . Hoang dại .

Để hiểu anh hơn , hãy thử đặt anh bên cạnh nhà thi sĩ được coi là quê hơn ai hết : Nguyễn Bính . Trong cuộc phiêu lưu kiếm sống giữa thị thành , tác giả Tâm hồn tôi , Mười hai bến nước , Mây Tần luôn luôn cho người ta thấy rằng thực ra ngày xưa gia đình ông sống nền nếp và phong lưu lắm , bản thân ra dáng con nhà lắm , chẳng qua bây giờ thất cơ lỡ vận nên mới khổ thế . Trong một bài thơ như Thanh đạm , người ta còn được chứng kiến cảnh đối ẩm, với lại những phút cao hứng ” cây nguyệt nằm suông mãi , tôi xin đàn người nghe “ . Một bằng chứng nữa là dù được tiếng chân quê hơn đời , nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ thấy còn nhiều chữ Hán , ở đó nhan nhản những mộng viễn hành , bức ngọc thư , hàn vi , lữ hành, tha hương , chung tình , đa đoan , tràng giang , giang hồ rồi lại cả vinh quy , ngự uyển , với mỹ nữ , lãnh cung nữa .

Đ Đ B thì khác . Cái quá khứ kia không phải chỉ là hồi ức thường xuyên trở lại , mà nó là một phần của hiện tại quanh anh . Nhất là nó chẳng có gì rực rỡ là bóng lọng , là cao sang quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ . Trăng trong thơ ĐĐB là trăng gày trăng cong, sào là sào gẫy , diều là diều đứt dây , con người xưng tôi trong thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ không quê . Dường như anh sẵn sàng nói rằng mình chẳng có gì để khoe với mọi người cả .

Trong nhiều trường hợp , hoang dại ở đây xem như đồng nghĩa với lang thang , mất gốc , không vào khuôn khổ nào , một tình trạng trì trệ không nảy nòi lên được về chất lượng nên đành bò ra ăn lan ra về số lượng . Nó , cái sự hoang dại trọn vẹn ấy , có mặt trong thơ Đ Đ B khắp mọi chỗ và làm nên một miền khí hậu riêng có phần không giống ai , dù chẳng ở ai không có .

Chỉ một lần nhà thơ kể chuyện mình Nói chuyện với cỏ dại . Song cả những khi không dùng đến cái từ cụ thể ấy , thì cảm giác hoang huỷ bơ vơ của cỏ dại vẫn trở lại . Nó ở những câu thơ nghe hơi rờn rợn Chân đạp đât đầu đội trời – ở đâu không có con người thì đi , nó lại ở cả những câu thơ tự nhiên nhi nhiên kiểu như củ khoai nướng để cả chiều thành tro hoặc mẹ ra bới gió chân cầu . Một lần tả cảnh lũ lụt , Đ Đ B viết “ Ối mẹ ơi đê vỡ rồi –- Mộ cha liệu có lên trời được không “.Đằng sau lối nói lu loa , là lời thú nhận về sự bất lực vô phương cứu chữa .

Không hiểu sao tôi đọc những câu tác giả viết như đùa : Ngậm ngùi thịt chó bánh đa Chiều nay lại thấy bà già xin ăn , hoặc Chợ làng mở dưới gốc đa – Nhà quê đem mấy con gà bán chơi mà cứ thấy bùi ngùi .

Xa vắng hiu hắt ngang trái bơ vơ , cái không khí ấy bàng bạc trong Đ Đ B , bất kể nông thôn hay thành phố .

II

Trong các thứ tiếng phương Tây, từ culture( mà ngày nay ta dịch gọn là văn hoá ) , trước khi có nghĩa dạy dỗ mở mang khai hoá giáo hoá ( Theo Đào Duy Anh , Pháp Việt từ điển ), còn có một nghĩa gốc là cày cấy trồng trọt thâm canh , làm kỹ một việc gì đó . Hãy nhìn vào các thứ cây ăn quả hiện nay . Thoạt đầu đó là những thứ cây dại phải qua bàn tay tác động của con người rồi những đặc tính xấu của chúng mới bị hạn chế những ưu thế của chúng mới được phát huy đầy đủ .

Thế nhưng ở đây có một khía cạnh không những thuộc về khẩu vị , mà còn liên quan đến nhận thức của loài người về khả năng của mình. Sau bao thành công trong việc lai ghép hoặc biến đổi mã di truyền , tạo ra các thứ giống cây mới có nhiều ưu thế , thì con người ở đâu cũng không quên một sự thật – , ấy là trong khi thua kém các loại cây thuần hoá về nhiều mặt , thì các giống hoa dại quả dại lại có hương vị riêng mà bàn tay nhân tạo không bao giờ làm ra nổi và do đó cái hoang dại kia vẫn đầy sức cám dỗ . Oái oăm là ở chỗ ấy !

Suy rộng ra còn có thể nói dù thay đổi bao nhiêu theo hướng hiện đại thì chất hoang dại vẫn còn một phần nằm mãi trong tâm trí chúng ta , mỗi khi bắt gặp nó , ta không tránh khỏi run rẩy như chợt nhận ra cái bản lai diện mục của mình .

Các nhà nghệ thuật cảm thấy điều này rất rõ . Trong nghệ thuật hội hoạ thế kỷ XX , có hẳn những trường phái khai thác vào cái hoang dại nguyên sơ của thế giới , lấy nó đối lập với những tìm tòi duy lý , người ta mệnh danh những trường phái này là hoang dã , ngây thơ à

Tuy không phổ biến song ở ta một số người đã có ý đi vào cái hoang dại đó . Chỉ có điều nhà văn VN vốn không mạnh về bề dày văn hoá , nên đi vào hoang dại trước tiên không do tìm tòi lâu dài , mà như là ngẫu nhiên bắt gặp : Không thể đến với sách vở hàn lâm thì trở về với nó . Chợt nhận ra từ lâu nó đã thuộc về mình mà không hay biết , nhưng nay nó là cả một xu thế hiện đại thì tội gì không theo . Nếu khôn ra gán thêm cho nó một ít màu sắc lý luận thì càng oai .

Về phần mình , ĐĐB đến với hoang dại như là không có con đường nào khác . Một lần tìm thấy là anh khơi mãi vào cái mạch ấy để tạo ra một nguồn thơ riêng , đến mức , gần đây , người ta cảm thấy thơ anh đơn điệu và dừng lại . Nhưng dù có thế thì cũng chẳng sao .

Nếu được đi tới cùng trên mạch suy nghĩ của mình , tôi còn muốn nói , qua anh , đã thấy manh nha một dạng nhà thơ mà chỉ thời nay mới có .

Chúng ta biết rằng thi sĩ cũng là những mẫu người chịu sự quy định chặt chẽ của thời đại . Theo sự quan sát của tôi , có thể tạm xếp loại mấy kiểu tâm thế thi sĩ hiện thời : 1) thi sĩ giáo huấn 2) thi sĩ hùng ca 3) thi sĩ ngây thơ như trẻ nhỏ , biết nhìn ra chất thơ ở chỗ người đời bỏ qua 4) thi sĩ hóm hỉnh 5) thi sĩ dự phóng , nhìn thấu lẽ đời vv.. và vv..

Không hẳn những sự định danh trên đây đã chính xác , song chắc là trong chân dung các thi sĩ hiện thời không ít thì nhiều có mấy cái đó . Mà Đ Đ B thì không rõ vô tình hay cố ý, nhưng đúng là cứ trật ra khỏi những cái khuôn khổ mà nhiều người đã tự nguyện chấp nhận và góp phần hoàn chỉnh ấy , để gần như đứng một mình . Tung tẩy phá phách làm tình làm tội người khác thế nào không biết , nhưng đó là chuyện ngoài đời , còn vào đến thơ , cái tôi của Bốn là một cái tôi hậm hụi bất lực . Dường như không sao tìm được sự cân bằng trong tâm lý . Cũng như chẳng biết cư xử ra thế nào cho phải . Thấy chung quanh tầm thường vớ vẩn , mà mình thì cũng chẳng hơn gì , lại có lỗi ở chỗ không biết làm sao tác động tới đời , khiến cho nó trở nên tốt hơn vừa ý mình hơn . Giữa vô vàn những lo toan – lo nghèo lo đói lo khổ lo không được hiện đại , – lại thêm còn cái lo nữa , lo lạc lõng , không ai nghe mình . Mấy chữ mồ côi thường xuất hiện . Trăng mồ côi . Bão mồ côi .Cây mồ côi . Mà con người đến chết vẫn có thể tiếp tục mồ côi ( Trở về với mẹ ta thôi- Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ ). Tâm lý mồ côi đó là gì nếu không phải là tình trạng người ta mất đi những chỗ dựa chắc chắn về tinh thần , không có cái để tin yêu và kính trọng ?!

Trước một đời sống ngổn ngang và có thể nói là tàn bạo nữa , con người trong thơ Đ Đ B như vậy là đang đi dần tới một thái độ tạm gọi là vừa phải : không huớ lên hớn hở một cách trẻ con , mà cũng không lảng đời kệ đời ; không tự nhấc mình vượt lên trên hoàn cảnh rồi chửi bới tùm lum , hoặc cười cợt vô trách nhiệm , mà cũng không làm bộ làm tịch , ra cái điều đang mải mê với những triết lý sâu sắc . Thơ chỉ có vậy , nên đành là một lời tự an ủi .

III

Bây giờ ta hãy cùng nhìn kỹ vào cái giọng thơ lục bát mà Đ Đ B đã hình thành riêng cho mình. Chỉ xét riêng thời nay đã thấy không ít những bậc thày kỳ tài còn in dấu trên thể thơ này . Duyên dáng tự nhiên là lục bát của Tản Đà . Cổ kính chắc chắn đường bệ đấy là lục bát của Huy Cận trong Lửa thiêng .Và người mà ở trên đã nói , Nguyễn Bính . Trong các tập thơ của mình , Nguyễn Bính mang lại cho lục bát khi thì một vẻ ỡm ờ , khi thì đoan trang , và bao giờ cũng tràn đầy nhạc điệu . Cả trong những câu thơ như buột miệng mà nói ra ( Em van anh đấy anh đừng yêu em ) , lẫn những câu đùa đầy dụng công ( Cánh buồm nâu , cánh buồm nâu, cánh buồm ) , người ta vẫn thấy một cái gì như là dẻo mồm tức quá khéo , dù đã khéo đến mức tự nhiên .

Cái lối tạo ra lục bát một cách trúc trắc , từng đôi câu sáu tám không vang lên một cách nhịp nhàng mà có vẻ lập cập khó khăn – cái lối ấy chỉ mới có từ hồi sau 1945 . Nguyễn Đình Thi và nhiều người khác đã tham gia vào quá trình này , ở đây tôi chỉ dẫn ra một người bạn cùng tuổi là Xuân Quỳnh. Vốn rất tự nhiên trong việc bẻ vần ghép chữ , mà không hiểu sao , trong một đôi khi sử dụng lục bát , Quỳnh vẫn cứ làm cho nó ngang ngang , ví dụ bài Về những thói quen của chị mở đầu bằng mấy câu như sau “ Con sông quen chảy xuôi dòng Mùa mưa nước lũ quen dâng từ nguồn Bên bồi thì cứ bồi luôn Còn bên lở vẫn lở thường quanh năm “ . Ôi lục bát gì mà đuồn đuỗn thế này ! Sau tôi mới hiểu chính là Xuân Quỳnh đã cố ý làm thế để tránh đi cái nhịp nhàng đều đều đã nhàm chán của một thể thơ quá phổ biến .

Trở lại với ĐĐB , phải liều mạng lắm người ta mới dám viết những câu ngang phè , đại loại :

Rét lòng khát ngọn lửa nhen

Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi ( VTN nhấn mạnh )

Thế nhưng đó chính là những câu thơ làm cho người đọc không đọc lục bát theo kiểu trôi tuồn tuột , mà phải dừng lại ngẫm nghĩ , cũng tức là nhà thơ đạt được cái hiệu quả mà người cầm bút nào cũng mong muốn .

Dễ dàng nhận xét là nhiều bài thơ Đ Đ B không có được cái sự liền mạch , mà hình như do từng mảng ghép lại , mỗi mảng là một đôi sáu tám hoặc hai đôi liền . Viết cái gì thì cũng vậy mà làm thơ càng dễ vậy , kỵ nhất là cái lối câu nọ gọi câu kia , đưa đẩy chuyển tiếp kết quả thành một thứ thuận miệng giống như người quen chân đi mãi , nhiều khi vẫn đi đấy mà không biết mình đi đâu . Trong một thể như lục bát điều đó càng dễ xảy ra . Không có kết cấu , nó qúa tự do , nhưng cũng chứa đầy cạm bẫy trong cái tự do đó . Do một sự may mắn nào đó , Đ Đ B có duyên sớm ngộ thấy cái sự mòn mỏi của nó , nên cố tìm cách tránh . Lục bát ở đây không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ giật cục như cái gì ngắc lại nghèn nghẹn nơi cổ . Thứ lục bát đó tôn thêm cảm giác quê mùa hoang dại chung của thơ Đ Đ B mà đoạn trên đã nói . Nói cho to tát cũng tức là ở nhà thơ này có một sự quyến quyện giữa nội dung và hình thức , hoặc nói theo chữ nghĩa đương thời tức là sự nhất quán của thi pháp .

IV

Thuở nhỏ tôi sống ở làng Thuỵ ( tên đầy đủ là Thuỵ Khuê ) , một vùng ngoại ô phía bắc Hà Nội , đàn ông thì đi làm Nhà da, Máy giặt, Bia Ô mền ( Bia Hà Nội hiện nay ) hoặc công nhân Xe điện , còn đàn bà chuyên hàng quà, bán rong các phố , quà rong ở đây cụ thể là các loại xôi , ngoài ra là sắn luộc khoai luộc v.. v...

Khoai luộc của làng Thuỵ thì ngon lắm .

Những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước , phố phường Hà Nội chưa đầy bụi và ngạt khói xe máy như bây giờ . Khoai luộc chảy mật đặt trên mẹt của dân làng Thuỵ nhởn nhơ gánh bán rong các phố không ai cho là bụi bẩn , nên ai trông cũng thèm , cả các cô môi son má phấn Hàng Ngang Hàng Đào cũng gọi mua .

Nhưng ngoài món khoai cổ điển đó , với cái gốc con nhà nghèo , tôi nhớ một món khoai lạ của các bà các cô làng Thuỵ. Khoai luộc mới sôi thì đã vớt ra và đổ vào nước lạnh , bởi vậy chỉ vừa chín tới và cắn vào còn sồn sột , nên gọi là khoai sượng . Cố nhiên là chỉ những thứ khoai còn nhỏ , những củ nhách củ kẹ , bán nắm bán mớ , mới được dùng để làm loại quà rẻ tiền này. Song có lẽ chính vì như thế nó lại có cái vẻ ngọt riêng , ngai ngái ngầy ngậy gần với khoai sống .

Không hiểu sao , khi đọc thơ ĐĐB tôi lại hay nhớ tới thứ khoai sượng nay đã tuyệt chủng kia .

Nhưng tôi cho rằng sẽ làm nghèo Đ Đ B đi nhiều nếu xem việc anh khai thác yếu tố hoang dại chỉ có ý nghĩa một biện pháp nghệ thuật , một cách ranh ma đổi mốt nhằm câu khách , mà không thấy rằng cái chính ở đây là một cách nhìn nhận , một cách bắt lấy cái thần của đời sống .

Thử nhớ lại hai bài thơ không rạ rơm chút nào của Bốn , bài Chiều mưa trên phố Huế và bài Xích lô đường Bà Triệu . Trong con mắt người làm thơ , cảnh phố Huế nào có khác chi chợ quê , cũng hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau , xe cúp dàn hàng ngang mà đi đấy , nhưng vẻ hiện đại không che nổi áo rách . Giữa đường Bà Triệu ồn ào , nhà thơ nhạy cảm vẫn thấy toát lên một chút gì đó tịch mịch xa vắng . Bởi vậy , cái chuyện cô đơn ngay giữa đám đông là không tránh khỏi và cảm tưởng cuối cùng được cô kết lại bằng cái câu rất sái : Xong rồi chả biết đi đâu, Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương .

Thế nghĩa là gì ? Dù đã chuyển sang thời hiện đại , song cảnh tượng ở đây chỉ là một biến thể của những chăn trâu đốt lửa với lại bắt gió chân cầu đã nói ở trên . Chua xót . Bế tắc . Cầm bằng đến đâu thì đến . Mà hoang dại vẫn hoàn hoang dại .

V

Rút lại thì tôi muốn bảo Đ Đ B là một giọng thơ dân gian hiện đại Dân gian là một khái niệm rất rộng . Là một cảm giác dang dở về đời sống . Là sự lạc quan tất yếu thành ra một thứ bản năng. Lại cũng là một nỗi buồn xa vắng khôn nguôi . Là sự hoà quyện giữa hy vọng và thất vọng . Là lòng ham sống là ý chí vươn lên đấu tranh cho đời sống ngày một tốt đẹp . Mà lại cũng là một sự hư vô buông xuôi gần như đồng nghĩa với tự cho phép muốn làm gì thì làm – , con người thì bao giờ cũng thế thôi , quá bận tâm đến họ làm gì cho mệt . Bởi vậy dân gian là trong sáng vô tư , nhưng cũng là hư hỏng đàng điếm tuỳ tiện “ chí phèo “ .... Đấy đại khái dân gian có lắm sắc thái như vậy , và chúng ta còn đang nỗ lực để hiểu thêm về nó .

Riêng về Đ Đ B , tôi cảm thấy trong cái vẻ đều đều gióng một của mình , anh vẫn là một tính cách pha trộn . Trong giọng thơ này, cái già cỗi mệt mỏi tồn tại ngay bên cạnh cái trẻ trung , cái ham muốn bồng bột nẩy nở đấy mà cũng tàn lụi ngay đấy , để rút lại nhường chỗ cho cái ngu ngơ bất lực bao trùm .Vừa chấp nhận đầu hàng , bỏ qua tất cả , mà lại vừa tham lam càm quắp , cò kè tính toán , vơ véo nhặt nhạnh , níu kéo lấy một cái gì lúc nào cũng có thể mất .

Hình như sự chấp nhận nửa vời như thế đang là cái cách mà nhiều người đương thời , trước một đời sống đầy bất trắc , tự phát tìm đến để tự vệ ?! Người ta thường chê tôi là cái gì cũng chỉ “cảm thấy “ với “ hình như “ , song chuyện đời là thế , lần này tôi vẫn không dám khẳng định , mà lại chỉ dừng lại ở “ cảm thấy” và “ hình như “ như cũ . Chỉ biết rằng đôi lúc rỗi rãi trong tâm trí thường vẫn quẩn lên vài câu thơ ĐĐB . Gạt đi cái phần ngang ngược thô thiển nó là điều không thể khác được với một con người có hoàn cảnh cụ thể như tác giả , thơ Bốn đôi khi là cái cớ giúp tôi tìm thêm lòng ham sống , lẫn thấm thía cả cái vô nghĩa của đời sống .

Làm đất đất phải nở hoa Làm tôi, buồn cái người ta vẫn buồn với câu thơ bâng quơ nghe như một tiếng thở dài đó , dường như Đ Đ B đã thú nhận : chẳng qua anh cũng chỉ như mọi người . Mà làm sao khác được cơ chứ ! Luật đời đã định !

Trong khi khai phá và trình bày nỗi niềm hoang dại nơi mình , người thi sĩ đã giúp chúng ta tìm thấy một phần cái ta sẵn có mà lâu nay chót quên lãng và mặc dầu vẫn sống đủ với nó , song hầu như lại chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ về nó . Cuộc đời thì ngắn mà mỗi chúng ta thì bơ vơ lắm .

VƯƠNG TRÍ NHÀN
(Tháng 7/2003- Tháng 7/2005)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Ba 201710:52 CH(Xem: 24538)
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần. Tôi đọc Song tử của Quỳnh cũng trong cùng đám mây tuyệt vọng đó, với tâm thế của một kẻ mộng du lạc bước vào chốn mơ của một kẻ mộng du khác.
06 Tháng Ba 201712:11 SA(Xem: 28035)
Hai tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, của bác sĩ Ngô Thế Vinh, vừa được trao giải Văn Việt 2017. Hai tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, của nhà văn, bác sĩ Ngô Thế Vinh, vừa được trao giải Văn Việt 2017, ngày 3/3, tại Sài Gòn. Theo tin VOA nhận được từ nhà văn Ngô Thế Vinh hiện đang ở California, Hoa Kỳ, ông được nhà văn Nguyên Ngọc, Chủ tịch Hội đồng Giải Văn Việt trao quyết định tặng Giải Đặc biệt cho hai tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Hai tác phẩm này đã được đăng trên Văn Việt năm 2016. Vì không thể về Việt Nam trực tiếp nhận giải thưởng này, nhà văn Ngô Thế Vinh đã ủy quyền cho nhà thơ Lý Đợi tiếp nhận và đọc diễn từ nhận giải thưởng Văn Việt 2017.
12 Tháng Hai 20172:31 SA(Xem: 30412)
"Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những nét minh hoạ tinh vi của hơn 10,500 chủng loại, bộ sách Hoạ Hình Cây Cỏ Việt Nam / Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm/ academic tại Đại Học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh hoạ. Và nay công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt Nam và cả ở hải ngoại. (Peter Shaw Ashton, Giáo Sư Charles Bullard ) Ngành Lâm Học, Đại Học Harvard
11 Tháng Giêng 20171:19 SA(Xem: 30624)
Khoảng ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng. Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000 m – được mệnh danh là "xứ tuyết", “nóc của trái đất”, hay "Cực Thứ Ba / Third Pole" -- hai cực kia là Bắc Cực và Nam Cực.
02 Tháng Giêng 201711:18 CH(Xem: 29145)
Tanaka Aki, tên cô gái Nhật Bản, Aki có nghĩa là "Mùa Thu", cô đã không có may mắn được gặp nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng mà cô rất ngưỡng mộ nhất là sau này khi được đọc tác phẩm Người Đi Trên Mây, Sa Mạc, Bụi và Rác. Aki đã bị cuốn hút ngay với tác phẩm Người Đi Trên Mây vì mối quan tâm của cô về môi trường, hoàn cảnh sinh hoạt của Sài Gòn trước 1975. Aki đã từng sống và làm việc ở Việt Nam hơn 13 năm nhưng là thời kỳ sau 1975. Và cô có ý muốn dịch Người Đi Trên Mây sang tiếng Nhật nhằm chia sẻ một tác phẩm hay với độc giả người Nhật.
11 Tháng Mười Hai 201612:35 CH(Xem: 28465)
"Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã. Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi có còn một tương lai. Xa rời quê hương, thật khó mà duy trì truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy như bị đánh mất phần hồn." Đã 36 năm kể từ ngày Mai Thảo trả lời cuộc phỏng vấn của Jane Katz 7.10.1980, hai năm sau ngày anh đặt chân tới Mỹ và cũng đã 18 năm kể từ ngày anh mất: Việt Nam vẫn chưa có tự do và thân xác anh thì nay đã vùi nông trên một lục địa mới rất xa với một nơi được gọi là quê nhà. NGÔ THẾ VINH
17 Tháng Mười Một 201610:47 CH(Xem: 34600)
LTS. Nhà văn Cao Xuân Huy mất ngày 12 tháng 11 năm 2010; vậy mà cũng đã 6 năm rồi. Sau đây là bài viết kết hợp của Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Y Thư để tưởng niệm tác giả Tháng Ba Gãy Súng, nhân ngày giỗ thứ 6 của Anh.
31 Tháng Mười 20163:02 SA(Xem: 27144)
Một bài học lịch sử từ cổ đại: Các siêu cường thường suy tàn vì chia rẽ, tranh chấp nội bộ. Liệu Liên Bang Mỹ có suy nghiệm về điều này để tự vượt thắng hay chăng? Siêu cường Mỹ có những khó khăn và rạn nứt; nhưng cũng dư thừa khả năng điều chỉnh, thắng vượt và hàn gắn. Tôn giáo đích thực của đại đa số dân Mỹ trầm lặng là hy vọng và tương lai.
11 Tháng Mười 20161:41 SA(Xem: 28340)
Isaan là một vùng châu thổ rộng lớn trên cao nguyên Khorat trong lưu vực Sông Mekong, bao gồm 20 tỉnh đông bắc Thái Lan, chiếm đến 1/3 toàn diện tích 514,000 km2 của Thái với hơn 20 triệu dân cũng chiếm khoảng 1/3 dân số Thái nhưng vẫn còn là một vùng nghèo và khô hạn, cho dù được bao quanh bởi con sông Mekong như một biên giới thiên nhiên giữa Thái - Lào. Do sự toa rập giữa thực dân Pháp và Anh, họ đã cắt một phần đất Lào sát nhập vào Thái từ 1941, do đó cư dân Isaan đa số là người Lào còn được gọi là Thay Isaan, nói cùng ngôn ngữ, chủ yếu sống bằng nghề nông, tơ lụa và chài lưới. Còn phải kể tới một số không ít người Việt sinh sống lâu năm tại đây.
31 Tháng Tám 201612:04 SA(Xem: 30638)
Như Phong Lê Văn Tiến, không rõ ngày sinh thật nhưng trên căn cước ghi sinh ngày 1 tháng 2 năm 1923 tại Bắc Việt. Tên thật ít ai biết là Nguyễn Tân Tiến, sau do nhu cầu hoạt động cách mạng, đổi tên là Lê Văn Tiến. Từ 1945, Như Phong làm tuần báo Ngày Nay Bộ Mới ở Hà Nội, sau đó làm biên tập cho sở Thông Tin Bắc Việt. Năm 1954, di cư vào Nam, ban đầu làm cho Việt Tấn Xã, sau đó từ 1955 sang làm nhật báo Tự Do xuyên suốt cả hai thời kỳ cho tới 1963 khi Tự Do bị đóng cửa. Ngoài báo chí Việt ngữ, Như Phong còn là cộng tác viên của The China Quarterly, London (1964-1972); các bài viết của ông về giới Trí Thức Miền Bắc, về Phong trào Nhân văn Giai phẩm đã tạo nên tên tuổi ông trên diễn đàn báo chí quốc tế.