- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

ĐẰNG SAU LŨY TRE XANH ĐANG SUY TÀN

14 Tháng Bảy 20215:36 CH(Xem: 10695)
Sau Luy Tre Xa
Con Đường Tre Xanh- (ảnh tư liệu từ tác giả)



Mai An Nguyễn Anh Tuấn

ĐẰNG SAU LŨY TRE XANH ĐANG SUY TÀN

 

 

Cứ mỗi lần được đi trên sông Hồng, tôi lại mê mải nhìn sang hai bên làng xóm trù phú, và cố tìm những luỹ tre làng đang bị mất dần đi… Thế mà, suốt bao đời nay, luỹ tre làng là một trong những biểu hiện quen thuộc nhất, sinh động nhất của châu thổ Bắc bộ. Nhà thơ dân dã Nguyễn Duy từng thốt lên:

Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi!

 

    Nhiều thế kỷ qua, các lũy tre đã bao bọc quanh làng - từ cổng đầu làng tới cổng cuối làng. Các luỹ tre làng dày đặc gần như là thành quách tự nhiên bảo vệ an toàn cho những địa bàn dân cư cổ xưa nhất. Vì vậy, luỹ tre cũng đã từng là biểu tượng của văn hoá làng người Việt. Luỹ tre làng lúc nào cũng xanh tốt và chịu đựng nắng mưa bão tố một cách kỳ diệu! Cổng làng cũng thường làm bằng khung tre hình chữ nhật có thể mở ra đóng vào hoặc giương lên hạ xuống. Vào ban đêm, có thêm những cành tre gai đắp vào cổng cho thêm chắc chắn. Làng châu thổ rất chú trọng bảo vệ các luỹ tre, chúng có tác dụng ngăn trộm cướp. Nhiều hình phạt đã được quy định đối với những ai chặt tre mà không cho phép, kể cả những búp măng. Trong khoản phạt do làng quy định có nói đến tiền thưởng đối với những ai tố giác kẻ chặt tre tuỳ tiện. Cùng với việc bảo vệ chống tai hoạ đến từ bên ngoài, luỹ tre còn là một thứ ranh giới thiêng liêng của cộng đồng làng xã, một cách biểu thị sự độc lập và bảo vệ tính riêng biệt độc đáo của làng. Vào thời loạn lạc, có những làng đã bị triều đình trung ương ra hình phạt: buộc phá bỏ luỹ tre làng, nếu như đã tham gia vào cuộc nổi dậy, hay cho kẻ phiến loạn trú ẩn - hình phạt đó là một vết thương lớn của lòng tự trọng, một dấu hiệu nhục nhã, tựa như người bị lột trần giữa đám đông mặc quần áo!

 

     Rời một lũy tre cằn còn sót lại, đi vào sâu trong làng xóm, tôi vẫn được nghe người già kể về những phong tục thôn quê còn lưu giữ tự bao đời - không ít tập tục lạc hậu, có hại, nhưng cũng có nhiều tập tục đáng trân trọng. Trong một công trình nghiên cứu địa lý nhân văn xuất bản năm 1936, tiến sĩ văn học Pierre Gourou có nhận xét chí lý rằng: nét quan trọng của đời sống xã hội làng Bắc kỳ là sự kiểm soát tuyệt đối của công luận đối với đời tư của mỗi người. Ông viết: "Làng là một cộng đồng mà sự trong sạch về đạo lý đòi hỏi mỗi người phải thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ của người dân và nghĩa vụ tôn giáo, chỉ cần thất hiếu với ông bà cha mẹ là chính quyền có thể can thiệp và phạt vạ", "sự bình yên của làng xã phụ thuộc vào sự phục tùng của mọi dân làng vào lẽ phải và làng có một niềm hãnh diện tập thể khiến họ muốn cho tên tuổi của làng mình không bị hoen ố" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ)(1). Không ít hương ước của nhiều làng đã quy định rất rõ về sự đoàn kết làng xã này. Một ví dụ tiêu biểu: “Nếu ta thường nghe nói rằng: phải đến sống tại những làng có đạo lý, phải chăng trong các làng đó đã tồn tại tình huynh đệ giữa dân làng?... Trong làng ta cũng vậy, dân cư thuần hậu nhưng vì phong tục biến đổi theo thời đại, sợ rằng một ngày kia thế hệ tương lai đánh mất những tình cảm trung thực của dân làng ngày nay, chúng tôi thấy cần phải thiết lập những quy tắc sau đây…” (Hương ước làng Thọ Đức - Yên Phong, Bắc Ninh). Phải chăng, chính điều đó đã là cái gốc tạo ra tinh thần đoàn kết, tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng mà mỗi lần đất nước bị lâm nguy, chúng đã được khơi dậy và trở thành một sức mạnh ghê gớm đè bẹp quân xâm lược? Tình cảm gắn bó với quê hương, với lũy tre, với cây đa bến nước sân đình… từ thuở ấu thơ đã mau chóng trở thành tình yêu Đất Nước. Việc làng là việc nước, việc nước là việc làng. Trong kháng chiến chống Pháp, nhiều làng đào hào đắp luỹ, trở thành làng chiến đấu, và khi cần, sẵn sàng “vườn không nhà trống” đối phó với địch… Người VN dù đi tới chân trời nào, dù ở trong cảnh ngộ nào mà nhận ra người chỉ cần cùng xã, cùng huyện, cùng tỉnh thì gọi nhau là «đồng hương» (thực ra «đồng hương» theo đúng nghĩa là cùng làng); và lòng yêu nước càng được nhân lên khi tình đồng hương hoà quyện.

 

     Không ít người đến hôm nay vẫn còn lưu giữ trong ký ức hình ảnh kinh hoàng của một thời: tiếng trống ngũ liên, tiếng kẻng canh đê, tiếng quát tháo của tuần đinh, cảnh nhốn nháo như ong vỡ tổ... lúc một quãng đê nào đó bị vỡ. Kèm theo đó là cái cuộc sống đói rách cơ hàn đến tuyệt vọng và bị áp bức đến tàn nhẫn của người dân châu thổ Bắc bộ được miêu tả quá nhiều trong phim ảnh, sách vở. Và đằng sau luỹ tre xanh đã sản sinh ra không ít mặt trái của đời sống làng xã - như tục lệ khao vọng nặng nề, là sự tranh giành chiếu trên chiếu dưới ô nhục mà nhà văn Ngô Tất Tố đã miêu tả sinh động trong tác phẩm “Việc làng”. “Một miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”, cái tâm lý cổ hủ đó ăn sâu cả ở trong tầng lớp trí thức! Luỹ tre xanh bao bọc xóm làng cũng là bức tường thành mà trong đó, bọn địa chủ ác bá làm mưa làm gió, hoành hành bóp nặn dân lành cùng khổ. Vì đói rách, bị ức hiếp, nhiều người đã phải buộc đi tha phương cầu thực, bỏ làng tìm đến các đồn điền cao su trong Nam, bên Lào, hoặc bên Tân thế giới làm phu mỏ… P. Gourou còn nêu ra cái "xu hướng của người nông dân muốn họp thành phe nhóm", sự tranh chấp ngôi thứ trong làng, cái thói quen "phép vua thua lệ làng" và, "theo đúng thói quen đã được xác lập ở đất nước này, các vị chức sắc cai trị bằng đút lót và dành hết công sức vào việc bòn rút của dân: ít ra là với những chức sắc có thế lực" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ). Điều P. Gourou viết cách đây hơn nửa thế kỷ đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Những cuốn tiểu thuyết hiện đại viết về châu thổ Bắc bộ gây xôn xao dư luận gần đây như "Mảnh đất lắm người nhiều ma", "Ma làng", v.v, là những minh chứng sống động...

 

    Ngoài ra, nông thôn châu thổ tới nay còn lưu giữ không ít tập tục cổ hủ khác cần phá bỏ: tệ cỗ bàn, cưới xin, ma chay tốn kém (Bộ phim truyện truyền hình "To nhất làng"(2) được phát lại nhiều lần trên các kênh TH Trung ương và địa phương đã miêu tả tệ nạn cưới xin chạy theo tâm lý khoa trương, trả nợ miệng, và một xu thế của thanh niên nông thôn mới phản đối kịch liệt tập tục đó! )

 

    Tới đoạn sông Cái chảy qua một làng cổ, tôi chợt nhớ đến câu chuyện bi thảm về một người con gái "vi phạm lệ làng" vào năm 1911 mà nhà nghiên cứu Toan Ánh tả lại trong bộ sách "Nếp cũ": cô gái hoang thai, bị làng gọt đầu, bôi vôi đặt trên một cái bè chuối có mấy phong bánh khảo, rồi thả trôi trên sông... Những chuyện như vậy đã trở thành ký ức đau buồn.

 

     Mấy chục thập kỷ qua, dòng sông Cái đã được chứng kiến sự thay da đổi thịt từng ngày của những làng quê châu thổ Bắc bộ. Hơn 70 năm trước, tiến sĩ P. Gourou dự báo về mức độ tăng dân số gấp đôi vào cuối thế kỷ XX tại châu thổ Bắc Bộ và lo lắng: "Vùng châu thổ vốn dĩ hiện nay đang không nuôi được đầy đủ 430 người trên một cây số vuông, làm sao mà lại có thể cung cấp cho những nhu cầu của một dân số đông gấp đôi!" - "Có thể coi như chắc chắn là người nông dân sống ở giới hạn của đói kém và nghèo khổ" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ). Dự báo về tăng dân số thì đúng, nhưng mối lo ngại của ông lại không hề xảy ra, vì châu thổ sông Hồng không những giải quyết được đủ ăn mà còn dư thừa để xuất khẩu !

 

    Sở dĩ châu thổ sông Hồng đã và đang giải quyết được vấn đề sản xuất nông nghiệp của mình vì đã thực hiện được một điều mà P. Gourou từng mong mỏi đề xuất: "Công việc bổ ích nhất đối với người nông dân sẽ là đình chỉ sự phát triển của sở hữu lớn mà thậm chí xoá bỏ những sở hữu lớn đang tồn tại, nếu cân bằng những đạo luật về ruộng đất nhằm tránh cho những nguồn lợi nghèo nàn của người nông dân trên mảnh đất quá nhỏ bé còn bị thu hẹp hơn nữa bởi việc phải nộp tô" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ). Như vậy là, sau khi đã thử trải qua nhiều mô hình sản xuất khác nhau, châu thổ sông Hồng đã quay trở về với nền kinh tế gia đình, tạo tiền đề cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp thành công. Và sự quan tâm thích đáng cùng những chính sách ngày một phù hợp với thực tiễn của Nhà nước đối với nông thôn nói chung, đối với châu thổ sông Hồng nói riêng đã góp phần quan trọng đưa nông thôn VN bước vào thời kỳ phát triển mới. Tiến sĩ Salvatore Diglio của trường Đại học phương Đông Naples Italia đã tổng kết trong bài "Vai trò của Nhà nước trong chính sách nông nghiệp của VN": "Không còn nghi ngờ gì nữa, vai trò của Nhà nước đối với nền nông nghiệp VN trong những năm qua đã có những thay đổi quan trọng. Kể từ cuối thập niên 1980, các hộ nông dân đã nổi lên như là các đơn vị sản xuất nông nghiệp chủ yếu, và thị trường đã trở thành động lực quan trọng quy định giá cả nông phẩm. Nhà nước vẫn là người đóng vai trò chính trong khu vực kinh tế nông thôn (về sở hữu đất đai, hệ thống tiêu thụ nông phẩm và tín dụng) và... đang duy trì ảnh hưởng to lớn của mình trong quan hệ giữa nông dân với thị trường trong và ngoài nước" (Các nhà VN học nước ngoài viết về VN)(3)

 

    Nhưng khi trở lại với nền kinh tế gia đình, đồng thời một loạt vấn đề mới của cuộc sống đã nảy sinh tại châu thổ. Trong bài viết: "Kinh tế hộ gia đình: 10 năm đổi thay ngành nghề tại các xã nông thôn đồng bằng Bắc bộ", nhà khoa học Christophe Gironde (thuộc viện nghiên cứu phát triển Genève, chương trình sông Hồng Hà Nội - Thuỵ sĩ) đã mở đầu như sau: "Sự phục hồi nhanh chóng kinh tế hộ gia đình đã đem lại các thay đổi lớn lao trong nông nghiệp cũng như trong các nghề phi nông nghiệp... Đối với các hộ gia đình, việc phi tập thể hoá có nghĩa là có các cơ hội mới nhưng cũng cả các ràng buộc mới". Sau khi đã khảo sát ba xã gần nhau trong huyện Châu Giang (tỉnh Hưng Yên) và các nhóm kinh tế tại đây, nhà khoa học Thuỵ Sĩ đã đưa ra những kết luận cần thiết giúp các nhà hoạt động chính sách, pháp luật... có thể tham khảo nhằm hỗ trợ sản xuất ở nông thôn châu thổ tiếp tục phát triển (Các nhà VN học nước ngoài viết về VN).

 

     Đặc biệt, trong xu thế phát triển xã hội, khi cơ cấu làng xã cổ truyền đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ, bị xoá nhoà, thì có rất nhiều nhà khoa học với tầm nhìn xa của mình đã đưa ra những ý kiến, những đề xuất đầy tâm huyết và xác đáng. Tiêu biểu hơn cả là tiến sĩ Nguyễn Tùng (thuộc trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp) với công trình nghiên cứu: "Phân tích so sánh sự biến đổi nông thôn vùng châu thổ sông Hồng". Sau khi tiến hành khảo sát nhiều năm ở xã Mông Phụ (Đường Lâm) đồng thời so sánh với ba xã khác: Tả Thanh Oai, Mộ Trạch và Đông Ngạc (thuộc Hà Nội và Hải Dương), ông đã rút ra những kết luận khá quan trọng: "Một làng không thể có đời sống khá giả nếu chỉ dựa duy nhất vào nghề nông... Làm sao để có thể tạo ra việc làm ở nông thôn?... Nếu những người nông dân tìm thấy việc làm cho mình, mặc dù được trả công thấp, họ vẫn có thể ở lại trong làng, ngay trong nhà của họ... Như vậy sẽ phát huy được mối đoàn kết truyền thống và sẽ có cuộc sống tốt hơn ở thành phố…" Và nhà khoa học Pháp gốc Việt đã có một đề nghị mang giá trị thực tiễn sâu sắc: "những khả năng của tính đồng nhất của làng xã được biểu hiện qua lòng tự hào về quá khứ, về việc gắn bó với đình làng và với một số nét đặc trưng của dân làng… Vậy thì phải làm gì để cho làng vẫn tồn tại và giữ được bản sắc trong cơ cấu làng xã? Đây là vấn đề cốt lõi vì như kinh nghiệm của lịch sử đã chỉ ra rằng, tính đoàn kết gắn bó của dân làng đã là gốc rễ để người dân Việt gắn sâu vào đất nước và đã tạo nên những ngôi làng VN trong suốt hai nghìn năm, đó là những thành trì thật sự có thể bảo tồn các bản sắc của đất nước trước quân xâm lược" (Các nhà VN học nước ngoài viết về VN). Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi mà “các cuộc xâm lăng văn hoá đang thay thế cho những cuộc xâm lăng diệt chủng” - theo cách nói của một chính trị gia quốc tế (4)!

 

    Nhưng, điều mà những trí thức VN thật sự cảm thấy lo lắng hơn cả, chính là sự vững bền trong tương lai của các gia đình truyền thống VN tại nông thôn - có thể coi là cái gốc của bản sắc dân tộc. Cách đây hơn hai phần ba thế kỷ, học giả người Pháp Léopold Cardière trong chuyên luận công phu "Gia đình và Tôn giáo người Việt" đã có những dòng viết đầy tâm huyết và đáng trân trọng: "Quả là có nhiều nguyên nhân giải thích sự suy thoái luân lý hiện nay; nhưng một trong những nguyên nhân mãnh liệt nhất đó là việc buông lỏng những mối dây liên kết của gia đình; đó là việc cá nhân thoát khỏi ảnh hưởng giáo hoá của gia đình được hình thành như một cơ chế mà ở đó người sống noi gương kẻ đã chết, ở đó mỗi thành viên đều có trách nhiệm với danh dự chung của mọi người". Kết thúc chuyên khảo, ông thốt lên như một lời kêu gọi: "Xin đưa ra một ước nguyện là xin đừng sử dụng bất cứ biện pháp nào có nguy cơ làm yếu gia đình tại xứ Việt này, trái lại hãy củng cố nó bằng mọi cách! Than ôi! liệu có được chăng?" (5)

 

    Nông thôn Bắc bộ với những vấn đề nóng bỏng cho đến hôm nay càng có sức hấp dẫn đối với các nhà văn, các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, xã hội học, dân tộc học… trong nước cũng như nước ngoài. Trong công trình "Các nghiên cứu về làng VN", tiến sĩ Hà Lan John Kleinen của trường Đại học Amsterdam có nhận xét lý thú có thể mở ra một khoảng rộng cho việc tìm hiểu những gì đang diễn ra đằng sau luỹ tre xanh: "… làng thường được coi như là nơi sống ẩn dật của những người dân quê sau luỹ tre làng từ thời xa xưa, các truyền thống được giữ nguyên vẹn, người nông dân thì được mô tả như những người mộc mạc, thẳng thắn và bảo thủ. Văn hoá làng và các phong tục làng được coi là mang tính nội tại và tính truyền thống sâu sắc. Các ấn tượng như vậy là sai lầm... Làng VN đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Đôi khi các thay đổi này diễn ra chậm đến mức mà để biết nó, người ta phải xem xét một khoảng thời gian rất dài cùng với vô vàn các sự kiện của lịch sử..." (Các nhà VN học nước ngoài viết về VN).

 

    Song, những thay đổi sâu sắc này lại đang đứng trước những hệ lụy đau lòng do việc mất đất để làm khu công nghiệp, sân golf... ( Xin tham khảo bài viết xúc tích và thời sự của nhà văn Nguyễn Quang Thiều: "Tiền bạc, ruộng đồng, và... thân phận của người nông dân" - lethieunhon.com). Những điều này đang cấp thiết đòi hỏi phải có một chính sách vĩ mô thích hợp và nhân đạo về chế độ ruộng đất...

 

     Và đằng sau lũy tre xanh ngàn đời kia hiện đang diễn ra những chuyện khiến ta choáng váng được kể lại đầy rẫy ở bất kỳ tờ báo chính thống hàng ngày nào: cha giết con, chồng chém vợ, thầy giáo bị học trò làm hại, gia đình bệnh nhân đánh thầy thuốc, tội phạm vị thành niên ngày càng tăng, nông dân bị chiếm đất ồ ạt đi khiếu kiện... Các vùng quê yên tĩnh đang tràn lan sự dối trá, lừa đảo; chuyện chạy chức chạy quyền, cúng bái cầu tài cầu lộc, mê tín dị đoan tràn ngập; tệ chặt chém người tiêu dùng và khách du lịch trở thành bệnh kinh niên; cán bộ xã, tỉnh đánh bạc mỗi ván ăn thua từ hàng trăm triệu tới hàng tỉ đồng… Sự thao túng của các nhóm lợi ích ngày một trắng trợn, và hố sâu phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, tới mức độ rất dễ dàng bùng nổ xung đột gay gắt trong lòng nông thôn của xã hội đương đại Việt Nam! Những lũy tre làng đang dần mất đi để thay vào đó là "hào lũy" của chủ nghĩa cá nhân cực đoan nhất được kích thích bởi kinh tế thị trường không kiểm soát - hoặc kiểm soát một cách hình thức! Có dư thừa thóc lúa để xuất khẩu thì cũng sẽ trở nên vô nghĩa - nếu như cứ mãi ở trong cái "hào lũy" đó, nhân tính sẽ bị mòn mỏi, những giá trị tinh thần tốt đẹp được kết tinh ngàn đời sẽ dần phân hủy, nát rữa, mọi thứ luân lý đạo đức mới đưa vào nhằm "giáo hóa" dân chúng sẽ chỉ tạo thêm sự mệt mỏi và góp phần nuôi dưỡng tâm lý giả dối phát triển thành căn bệnh ung thư ác tính... Điều quan trọng giờ đây là phải phá bỏ cái "hào lũy" đó đi bằng mọi giá!

 

    Nhưng trước hết cần phải tháo dỡ, dù là một cách đau đớn - những rào cản trói buộc quyền tự do dân chủ thực sự, xây dựng một chế độ pháp quyền lành mạnh mà trong đó tất cả mọi người - không từ bất kỳ ai đều bình đẳng trước Pháp Luật. Song, những điều đó đang bị vướng víu bởi muôn vàn quy định không viết thành văn bản, chúng có sức mạnh ma quái còn hơn mọi hương ước từ xưa trong các làng quê - bởi các nhóm lợi ích cố kết với nhau hình như đã bắt đầu mang màu sắc của "Mafia"...

 

     Tôi đành mượn lời của Léopold Cardière: "Than ôi! liệu có được chăng?"

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

___________________________

1. Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nxb Trẻ, Tp. HCM, 2003

2. Hãng phim THVN (VFC) sản xuất năm 2003, Kịch bản & Đạo diễn: MA NAT

3. Các nhà VN học nước ngoài viết về VN,  Nxb Thế giới, Hà Nội 2002 ( Hai tập)

4. Dẫn theo Phan Ngọc : Một cách tiếp cận văn hoá, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999

5. Léopold Cardière, Văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng VN , Nxb Thuận Hoá, Huế, 2006

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
12 Tháng Chín 202312:43 SA(Xem: 5753)
Hai câu trên nằm trong bài thơ mang tên “Lễ Phục Sinh 1916” của William Butler Yeats. Bài thơ nhằm tưởng nhớ tới những người đã ngã xuống cho tự do và độc lập của Ireland. Cuộc hành quyết đẫm máu các thủ lĩnh cách mạng sau cuộc trỗi dậy vào ngày lễ phục sinh đã đánh thức cả một thế hệ Ireland. Cuối cùng, nhân dân Ireland cũng dành được độc lập vào năm 1949 và bài thơ của Yeats được cho là một trong những bài thơ chính trị hay nhất của thế kỷ 20 trong lịch sử văn học nước Anh.
04 Tháng Chín 20238:30 CH(Xem: 5311)
Trong ngót hai chục phim truyện điện ảnh tham dự tranh Giải Cánh Diều năm nay của Hội Điện ảnh VN, có thể nói “Em & Trịnh” là một tác phẩm hoành tráng bậc nhất. Và cũng cần phải thẳng thắn điều này: những người làm “Em & Trịnh” đã rơi vào cả hai tình huống đặc biệt của Điện ảnh: a. thực hiện một bộ phim chân dung vốn đầy thử thách, b. đặc biệt là phim ca nhạc sẽ cực kỳ khó khăn về các yếu tố kỹ thuật!
10 Tháng Bảy 20231:55 CH(Xem: 6313)
PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969 Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] là nhan đề một tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự... Nếu là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở đâu, phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến tranh. Trong tập thơ này, có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam: Xuân Quỳnh (My Son’s Childhood), Hương Tràm (The Vietnamese Mother), Hà Phương (To An Phu, From This Distance I Talk To You), Trần Mộng Tú (The Gift In Wartime, Dream of Peace), Minh Đức Hoài Trinh..., Nguyễn Ngọc Xuân...
09 Tháng Sáu 20234:36 CH(Xem: 5961)
T. cận tôi trai Hà Nội, song có dịp được đi & sống ở nhiều vùng đất trở thành thân quen, rồi yêu quý - và một trong những vùng đất đó là Bình Định. Một sinh viên của tôi làm phim tốt nghiệp về “Võ Bình Định”, tôi rất vui, bảo: “Thầy mới chỉ biết đôi chút về Trời văn Bình Định thôi, phim của em giúp thầy và nhiều người hiểu thêm về Đất Võ Bình Định đáng tự hào”… Mấy Hội thảo Khoa học về cụ Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu - người thầy của Đào Tấn vĩ đại, về Tổng đốc Lê Đại Cang, may được ông Tổng BT tạp chí Văn Hiến Nguyễn Thế Khoa chiếu cố mời về cùng với tham luận và làm phim nên càng có dịp thâm nhập sâu hơn vào kho tàng văn hóa Bình Định. Một dạo, có lớp tập huấn về Biến đổi khí hậu do Thái Lan và Diễn đàn “Nhà báo Môi trường” tổ chức tại Quy Nhơn, được mời tham dự và làm phim cho họ, tôi có điều kiện hiểu thêm về giá trị của Môi trường “xứ Nẫu” nói riêng và Biển miền trung Trung bộ nói chung…
24 Tháng Năm 20234:02 CH(Xem: 5940)
Trong số những nhà thơ lớn Việt Nam các thời Cổ - Trung - Cận đại, tình cảm đặc biệt nhất của tôi với tư cách một người làm phim truyện, là dành cho Thi sĩ-Nhà giáo-Thầy thuốc Nguyễn Đình Chiểu. Bởi theo tôi, giá trị lớn nhất, sức hấp dẫn kỳ lạ nhất trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu, chính là trái tim thương cảm của ông đối với Dân, đối với những nghĩa sĩ đã xả thân cho Tổ quốc, và đặc biệt với phụ nữ, trẻ em - những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội, nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, loạn lạc…
21 Tháng Ba 20235:16 CH(Xem: 5195)
Chẳng thể cứ tự hào Việt Nam nay là đất nước phát triển nếu như dân cư của cả nước vẫn phải sống với nguồn nước bẩn và một môi trường đầy ô nhiễm. “Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước.” Oded Distel [chuyên gia về nước của Do Thái] Đề nghị chọn Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 là Ngày Nước Việt Nam / Vietnam Water Day. [Nhóm Bạn Cửu Long]
26 Tháng Hai 20238:39 CH(Xem: 6072)
Mai An Nguyễn Anh Tuấn Ủng hộ lời kêu cứu cho Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà khoa học Ngô Thế Vinh trên vanviet.info và bauxitevn.net
13 Tháng Hai 202312:43 SA(Xem: 6176)
順天者存,逆天者亡 Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong Thuận với thiên nhiên thì còn. Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử] “Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.” Ngô Thế Vinh
06 Tháng Giêng 202312:11 SA(Xem: 5803)
Nguyễn Du chỉ thốt lên một lần duy nhất: Ta vốn có tính yêu núi khi ông Bắc hành, ở đoạn cuối sứ trình; nhưng cái tính đó, ông đã bộc lộ biết bao lần trong 254 bài qua cả ba tập thơ chữ Hán của mình! Ai ham đọc sách mà không biết câu nói có tự cổ xưa: Trí giả lạc thủy, nhân giả lạc sơn (Kẻ trí thì vui với sông nước, người nhân thì vui với núi non); song cái ý tưởng sách vở thể hiện khát vọng thoát tục thanh cao, mơ ước được tựa vào non xanh để tìm sự yên tĩnh vĩnh hằng của nội tâm đó đã được Nguyễn Du trải nghiệm bằng toàn bộ cảm giác buồn, vui, qua các đoạn đời phong trần của mình, và ông miêu tả chúng qua bao vần thơ chữ Hán thực thấm thía, rung động.
14 Tháng Mười 202211:28 CH(Xem: 6971)
Năm 2020, đã có một lúc bao nhiêu triệu cư dân vùng hạ lưu sông Mekong thở phào nhẹ nhõm khi nghe tin Bộ Điện Lực Cam Bốt tuyên bố hoãn mọi dự án thuỷ điện trên sông Mekong trong 10 năm tới [1], như vậy là ít nhất có một thời kỳ dưỡng thương cho dòng sông bị đầy những vết cắt do chuỗi đập thuỷ điện của Trung Quốc và Lào phía thượng nguồn. Nhưng rồi mới đây, chỉ hai năm sau, 2022, là một tin chấn động khác: Phnom Penh tuyên bố cho tái phục hoạt / resurrection dự án thủy điện Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong phía đông bắc Cam Bốt sát ranh giới với Lào. Dự án này không chỉ sẽ tàn phá sinh cảnh các khu đất ngập được bảo vệ bởi Công ước Ramsar ký kết từ năm 1971, mà còn gây tác hại vô lường trên hai vùng châu thổ phì nhiêu Tonlé Sap và ĐBSCL. Đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết nhìn lại toàn cảnh cuộc hành trình gian truân của một dòng sông – Sông Mekong hơn nửa thế kỷ qua.