- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nhớ Huy Cận, Người Quê Viết Thơ Quê

13 Tháng Năm 20198:54 CH(Xem: 19236)


nhà thơ HUY CẬN
Chân dung nhà thơ Huy Cận - ảnh Internet

 

         Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình trung nông lớp dưới. Bố Huy Cận đậu tam trường làm hương sư ở Thanh Hoá, sau về quê dạy chữ Hán và làm ruộng. Mẹ Huy Cận là cô gái dệt lụa làng Hạ nổi tiếng ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ.  Thuở nhỏ Huy Cận học ở quê. Đang học lớp tư được vài tháng thì theo một người cậu vào Huế học hết tú tài toàn phần ( 1939 ). Sau ra Hà Nôi, từ đấy trải qua nhiều thăng trầm nhưng đại bộ phận đời ông sống xa quê.

       Rất gắn bó với đất quê, thực ra chỉ có mười mấy măm  tuổi thơ, còn là lưu lạc, nhưng ký ức tuổi thơ lại ám ảnh thương nhớ trọn đời. Quê Huy Cận là một xã sơn cước, cảnh đẹp, không khí cổ sơ, nhân dân rất ham hát ví giặm, kể các truyện Nôm, kể truyện Kiều và ngâm Kiều. Đó là một miền sơn cước rất nghèo, dưới chân núi Mồng Gà, bên dòng sông La cổ kính và bên kia sông có chợ Nướt, mỗi tháng họp chín kỳ. Thuở Huy Cận sống thời thơ ấu, cảnh sắc nơi đây đẹp một cách xa vắng, đìu hiu. Điều đó, sẽ là một phần nào sau nầy khiến cho thơ Huy Cận tự nhiên ẩn chứa một nỗi buồn lãng đãng.

 Trong  Lời giới thiệu “Tuyển tập Huy Cận” (tập I) Xuân Diệu đã viết về làng quê Ân Phú: “ Rất nhiều cá tính của đất đai, có thể nói mỗi mảnh đất đều tràn đầy  xúc cảm, như tích tụ cái cổ sơ đâu từ hàng trăm năm trước. Làng quê hương đã cung cấp cho Huy Cận một cái vốn đất đai gì sâu thẳm như gan ruột của thời gian “

              Quả thật, sông núi, đất đai quê hương, những chợ Nướt, dòng sông La, núi  Mồng Gà…đã làm nên xương thịt của nhà thơ và dệt nên tâm hồn thơ nơi con người ông:

Tôi sinh ra ở miền sơn cước

Có núi làm xương cốt hàng ngày

Đất bồi tơi làm da thịt mát

Gió sông như những mảng hồn bay.

Và:

Tuổi nhỏ tôi trùm trong nhớ thương

Cách sông chợ Nướt bến đò sương

Làng quê chân núi chiều về sớm

Bóng núi dài lan mát ruộng nương

     Huy Cận đã sống tuổi nhỏ trong quê hương đẹp và nghèo ấy. Quê nghèo đã cho ông hồn thơ. Cảnh vật, con người quê hương luôn ám ảnh tâm can nhà thơ, làm thành những kí ức tuổi nhỏ chi phối thế giới nghệ thuật thơ Huy Cận.

       Lửa thiêng ( 1940) là tập thơ tiêu biểu của Huy Cận trước cách mạng và thuộc số thành tựu xuất sắc nhất của thơ mới 1932 - 1945. Người đọc bắt gặp ở Lửa thiêng một cái tôi khát khao giao hoà,  nhưng luôn cảm thấy cô đơn trống vắng. Làm nền cho tập thơ là những nỗi buồn quê kiểng : nỗi buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn nơi xa, buồn của người lữ thứ, buồn nơi quán trọ, nỗi buồn trước cảnh sông dài trời rộng... Nỗi buồn thương của Huy Cận như ngấm ngầm chất chứa tự đáy lòng, lan toả khắp ngoại cảnh, tạo thành cái mạch sầu chảy hút về hoài niệm chùm lên cả những xúc cảm về quê hương:

Trông vời bốn phía không nguôi nhớ

Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay

                            ( Vạn lý tình )

Đọc thơ Huy Cận thời này, có người không khỏi giật mình về cái buồn man mác khi bất chợt, khi trải dài cố hữu  xen vào nhau rất đậm, cho là ảnh hưởng “nỗi buồn trong thơ Pháp, là cái mode của thi ca đương thời” ! Không hẳn thế chúng tôi cho đó là tâm trạng của một thế hệ những người trí thức  lúc bấy giờ, là một nét quan niệm về nhân sinh  kết tinh trong nghệ thuật, được cộng hưởng thêm từ Chủ nghĩa lãng mạn phương Tây mà thôi.

  Huy Cận thường nói tới thiên nhiên,  những thi ảnh thân quen trời , sông , sóng, khói, con đò, chiếc cầu, cánh chim…dễ gây xúc động cho người đọc, làm cho người ta nhớ quê nhà. Cho đến khi xuất bản Lửa thiêng ( 1940) , Huy Cận chỉ trải nghiệm hai con sông lớn, đó là Sông La ở quê và Sông Hương ở Huế . Bài thơ “Tràng giang” (1939) thấp thoáng bóng dòng La với bao nhiêu chi tiết mà ai đi trên dòng sông này một lần đều có thể cảm thấy phảng phất nhiều hình ảnh được tái hiện trong bài thơ, cùng với nét biểu cảm sâu lắng tâm hồn ông. Nhiều nhà phê bình khen ngợi bài thơ này đặc biệt hai câu cuối “Lòng quê dợn dợn vời con nước /Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”vì cái  âm hưởng Đường thi và tình quê mơ màng lai láng của nó.  Tuy nhiên nhiều chi tiết khác  được tác giả thể hiện trong bài mới thật sự đậm chất quê kiểng, xúc động lòng ngừơi.

               Khung cảnh đặc tả trong bài thơ rất có ý nghĩa trong sự liên tưởng tâm trạng thi sĩ với miền quê. …Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mậ/.Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng…

Đó là hình ảnh thượng nguồn con sông La chảy từ Lào sang với hai bờ xa cách, nước chảy xuôi, không một chuyến đò ngang. Chẳng có cây cầu nối liền hai bờ, đứng ở bờ sông bên nầy, nhìn sang bờ sông bên kia chỉ có bãi cát vàng,  bờ dâu xanh…,  kéo dài đến tận chân trời…

           Những thi ảnh rất gần gũi với độc giả, mang đậm hồn quê  của ông. " Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" , một hình ảnh thơ quen thuôc mà rất gợi cảm . “Chợ Nướt” bên kia sông  và vài chợ khác là nơi trao đổi hàng hoá, gặp gỡ, chuyện trò rộn rịp thân thiết của làng quê . Hình ảnh một ngôi chợ nhỏ, lơ thơ mấy mái tranh là rất quen thuộc ở miền quê nước ta, cách gọi tên đặc biệt của làng quê xứ này: Chợ họp buổi sáng gọi là "chợ mai", họp buổi chiều,  gọi là "chợ chiều” , chợ họp  trễ lúc đầu hôm là "chợ hôm".  Cảnh chợ chiều, nhất là lúc vãn chợ, bao giờ cũng buồn. Huy Cận rất tinh tế,  ông là người sinh ra lớn lên ở miền quê Đức Thọ trước khi đến học ở kinh đô Huế , nên nhận biết rất sâu sắc những cảnh tình đó.

              Bèo dạt về đâu hàng nối hàng, cánh bèo trôi  là hình ảnh về sự vật, nó gần với "bèo dạt hoa trôi"- thành ngữ dân gian  nói về thân phận con người trong xã hôi cũ. Những cánh bèo từng hàng bị xô đẩy nổi trôi trên dòng sông trong bóng chiều  là một bức  tranh đầy gợi cảm tượng trưng cho bao kiếp người lênh đênh vô định.  Nhất Linh một thời thích câu thơ " Bèo giạt về đâu..." của Huy Cận. Có lúc ông đã tính lấy hai chữ "Bèo giạt" để đặt tên cho toàn bộ ba tập tiểu thuyết "Dòng Sông Thanh Thuỷ" (Dòng Sông Thanh Thuỷ - tập 1, "Chi bộ Hai người" - tập 2 và "Vong Quốc"- tập 3).

(Theo Hồng Lam đất văn chương đất khoa bảng - Chương: Huy Cận, NXB Thế giới, 2010 )

     Tất cả những hình ảnh làng quê mà ông mô tả như trên, phải là người yêu làng quê lắm , mới có những nhận xét tinh tế như thế. Chúng tôi cho Tràng giang là tâm tư được rút ra từ tấm lòng quê kiểng, dóng sông mang bóng dáng con sông quê nhà của ông.

*

                    
             Huy Cận là một người vô cùng giản dị, có nhà văn đã viết về ông: “Thật lạ lùng là vị bộ trưởng, nhà thơ tài năng kiệt xuất và tài hoa nhiều mặt ấy lại luôn luôn mang một vẻ bề ngoài hết sức mộc mạc, bình dân tới mức dân dã vô cùng! Ông gần như vẫn nói giọng Nghệ Tĩnh nguyên xi, sau nửa thế kỉ sống giữa lòng thành phố thủ đô! Vẫn thường mặc những quần áo vải bông tuềnh toàng, mang giầy vẹt gót, không sơn bóng nước xi” ( Hoàng Cát - Chuyện văn chuyện đời nhà thơ Huy Cận ). Cất giấu bên trong cái vẻ ngoài giản dị mộc mạc đó là một tình yêu sâu đậm với quê hương.

            Quê hương hiện lên trong thơ Huy Cận không chỉ là cảnh mà còn là người, những con người mộc mạc gần gũi thân thương  mà bao giờ nhắc đến họ, đến những những ngày buồn xưa cũng như những ngày vui nay  giọng thơ ông như trầm hẳn xuống muốn san sẻ . Đó là những bà mẹ, em bé trong những ngày mưa, lụt  “ơi ời giữa nước mênh mông trắng”, những bà dì, bà mự, bà cô sống hẩm hiu “như hòn cuội lăn xuôi”, người thầy” năm nhăm năm vụt tắt”  nhà thơ nghe lòng mình xót xa…Sâu đậm nhất là hình ảnh mẹ nhà thơ “Mẹ ơi sao mẹ giống/ Đất nước sinh ra con/Cũng một bầu khổ thống/Cũng bấy nhiêu đau buồn”. ( Trích Hồi ký - !940)

Hình ảnh quê hương thân thiết với người cha, người em, đàn gà, con trâu cùng với những món quê tương, nhút, cá kho, cơm ủ… luôn theo ông trong niềm thương nhớ: Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp/ Trâu dậy trong ràn em cựa nôi / Cha dậy đi cày trau kịp vụ / Hút vang điếu thuốc khói mù bay/ Nhút cà cơm ủ trong bồ trấu/ Chút cá kho tương mẹ vội bày...(Sớm mai gà gáy). Những tiếng quê “ràn”, “cày trau”, “nhút cà” xa quê lâu ngày ông vẫn nhớ!

            Tập trung cho tình yêu quê hương đầy nhớ nhung, tự hào là bài thơ  “ Gửi người bạn Nghệ Tĩnh” trong tập thơ “Những năm sáu mươi” của ông. "Xứ Nghệ” trong lĩnh vực văn hóa, văn chương truyền thống thường  bao gồm cả hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.  Có lẻ đây là bài thơ duy nhất trực tả Xứ Nghệ trong văn chương hiện hành với  những sản vật tiêu biểu như “cà xứ Nghệ càng mặn lại càng giòn”, “nước chè xanh xứ Nghệ càng chát lại càng ngon” và  những gia tài văn hoá phong phú như  “vè, ví dặm  xứ Nghệ càng lắng lại càng sâu” một cách tự hào.

Từ bấy lâu nói về văn hóa và con người vùng đất này có hai nhà văn nói khá sâu săc gây nhiều ấn tượng, đó là Nguyễn Đổng Chi và Đặng Thai Mai , nhưng các cụ nói chủ yếu về con người xứ Nghệ với những nét cực đoan trong tính cách, như chiến đấu gan dạ đến liều lĩnh, giải quyết tốt những trận đánh khó khăn nên có lần vua nhà Trần trước sự vây hảm, đẩy lùi của quân thù đã tự tin bảo rằng ta “còn mười vạn quân Hoan Diễn” (Hoan Diễn do tồn thập vạn binh) chưa dùng đến, Hoan Diễn là hai châu Hoan, châu Diễn tức Nghệ An, Hà Tĩnh sau này. Hoặc khi cuộc sống đẩy đến cùng cực thì phải kết liên  với nhau chống lại, các cụ gọi là sức mạnh  hợp quần ( Xô Viết Nghệ Tĩnh). Huy Cận tự  hào về cái vẻ đẹp mộc mạc mà tinh tế , nhân văn trong văn hóa, tâm tình con người Xứ Nghệ.

…Ai đi vô nơi đây,/ Xin dừng chân xứ Nghệ.
Nghe câu vè ví dặm/ Càng lắng lại càng sâu.
…Tình xứ Nghệ không mau,/ Nhưng bén rồi  sâu lắng.
Quen xứ Nghệ quen lâu,/ Càng tình sâu nghĩa nặng.

…Ôi tâm hồn xứ Nghệ, /Trong hồn Việt Nam ta.

       Chất Nghệ của bài thơ càng hiện rõ ở thể điệu ví dặm và ngôn ngữ đậm chất dân gian mà tác giả vận dụng thành thạo.

       Bài thơ Ngã ba Đồng Lộc, đỉnh cao của lòng mến yêu , tự hào về quê hương Hà Tĩnh, quê hương Việt Nam . Một cách thể hiện mới mẻ của thể thơ tự do, những thi tứ  hiện thực xen lẫn tượng trưng tạo một cảm xúc bi tráng - cao cả:

….Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, Bằng  sông, bằng thuỷ triều lên xuống,
Bằng đèn xanh đèn đỏ đủ màu Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã,
Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu. Khi con về quê con nhớ viếng thăm
Mộ các cô kề bên đường đỏ…
(Ngã ba Đồng Lộc)

  Mộ các cô ở đây là mộ 10 cô gái huyền thoại đã hy sinh cho Ngã ba bất tử. Ngã ba này vượt lên những hư ảnh tầm thường “đèn xanh đèn đỏ” giả tạo, vượt lên sự phản bội “chênh vênh vấp ngã”, ngã ba này “làm bằng xương máu”…Những câu thơ khẳng định và thức tỉnh ! Một cảm nhận chân thật sâu sắc về Đồng Lộc.

           Phong cách thơ về quê hương của Huy Cận  cũng như thơ ông nói chung khó gói lại trong một vài mệnh đề, thi liệu thường là những hình ảnh vừa có sự gần gũi, thân thuộc nhưng phong phú và đa dạng , dân dã  mà bác học, hiện đại lại  mang dáng dấp của thơ ca truyền thống. Thể tài cũng vậy, thơ bảy chữ, năm chữ, tự do đều có. Ngôn ngữ khi thì như tiếng nói đồng quê, khi  thì cổ kính như thơ Đường cổ. Bảng lảng những suy tư triết học nhưng lại gần gũi trữ tình tâm sự của người bình dân. Ba  bài thơ quê  Tràng giang,  Gửi người bạn Nghệ Tĩnh, Ngã ba Đồng Lộc mà chúng tôi trích dẫn trên đây là một minh chứng cho những điều đã nói về phong cách thơ quê của ông: Cổ điển như Tràng giang, dân dã như  Gửi người bạn Nghệ Tĩnh và tân kỳ như Ngã ba Đồng lộc!

        Phấn đấu cho mình có được một phong cách nghệ thuật riêng là mục tiêu đẹp đẽ của mọi nhà văn. Ngay từ khi mới cầm bút, Huy Cận đã ý thức được điều này. Bằng tài năng bẩm sinh, và quá trình lao động sáng tạo công phu nghiêm túc, Huy Cận đã tạo dựng cho mình một phong cách riêng khá nổi bật trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Mảng thơ về quê hương có một đóng góp lớn cho thành tựu này./.

03-2019 

YẾN NHI

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Tư 20151:48 SA(Xem: 30953)
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Đặng Tiến 28-10-1998] Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà, Một mình...
20 Tháng Tư 201512:22 SA(Xem: 31243)
Ngày 30-4, ngày nếu có một triệu người vui, cũng là ngày có một triệu người buồn. Câu nói trong quá khứ của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng chủ trương chính sách Đổi Mới, được lập đi nhắc lại nhưng liệu có còn chính xác với tình thế hiện tại của đất nước ? Ngày nay, kinh tế tụt hậu, hàng xuất là lao động giá bèo, cái đinh vít cũng không làm được mà nhập hàng ngoại tuốt tuột, nợ chồng chất. Rồi tham nhũng lên đỉnh cao, đạo đức xã hội xuống cấp...
22 Tháng Ba 20153:31 SA(Xem: 30627)
Nguyễn Xuân Hoàng trong số báo Văn đặc biệt về TTT, đã viết: "Thanh Tâm Tuyền như ngọn cờ đầu của thơ tự do Việt Nam, người làm mới thi ca Việt Nam." (2) Đặng Tiến khi viết bài tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền đã bày tỏ ít nhiều tiếc rẻ là "lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế."
18 Tháng Hai 20159:45 SA(Xem: 37729)
Vậy mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
02 Tháng Mười Một 20141:53 SA(Xem: 40065)
Hồ Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang vào đời Hậu Hán thời Ngũ Đại (947 – 950) sang làm Thái thú lộ Diễn Châu (Nghệ An). Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột thuộc lộ này, làm trại chủ đến đời thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại tỉnh Thanh Hóa, làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình.
10 Tháng Mười 20141:45 SA(Xem: 43762)
Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia” . Sự tranh luận này có chiều hướng phủ nhận quan điểm cũ của các tiền bối cũng như những người tin theo họ để bảo vệ cho cách đọc “cái đa đa”.
20 Tháng Chín 20145:29 SA(Xem: 31255)
Trong số 26 con đập dòng chính Sông Mekong, thì Noạ Trát Độ / Nuozhadu 5,850 MW trên Vân Nam là con đập lớn nhất, và Don Sahong 260 MW là con đập nhỏ và quan trọng nhất thuộc địa phận Nam Lào (không kể tới Thakho Diversion, cũng của Lào, 50 MW được bảo trở bởi CNR & EDL). Bài viết là một phân tích về hai thái cực của sự huỷ hoại: từ con đập lớn nhất tới con đập nhỏ nhất trên toàn hệ sinh thái Sông Mekong.
08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 33363)
Khiếm khuyết lớn của dân tộc Việt là đã say mê khía cạnh chính trị của chiến tranh mà lãng quên khía cạnh thuần học thuật, quân sự của chiến tranh. Clausewitz nổi tiếng với mệnh đề thường xuyên được trích dẫn: "Chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị." Nhưng Clausewitz không viết duy nhất một mệnh đề này, mà soạn thảo tám tổng tập Cẩm nang Chiến tranh mà cho đến phút này vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt, ngay cả tóm lược .
27 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 36585)
Tôi ít thấy ai yêu thơ như Mai Thảo. Thuộc rất nhiều thơ, đặc biệt thơ tiền chiến và thơ những năm đầu kháng chiến, Mai Thảo có thể nói chuyện về thơ miên man từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày khác. Dường như chỉ khi nói chuyện về thơ, Mai Thảo mới hoạt bát, sôi nổi, say sưa, gửi hết hồn mình trong từng tiếng trầm tiếng bổng. Ly rượu trên tay, đầu lắc lư, mắt lim dim, Mai Thảo nói về thơ với giọng vừa xúc động như khi người ta kể lại một mối tình đầu, vừa thành kính như một con chiên kể về cuộc đời của Người Cứu Thế. Với Mai Thảo, thơ là cái gì thiêng liêng, rất đỗi thiêng liêng, như một tôn giáo. Với Mai Thảo, thơ, "chỉ thơ, mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương"
18 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 32164)
...toàn cảnh các quốc gia trong lưu vực Sông Mekong từ Trung Quốc xuống tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam cho dù mang những tên gọi khác nhau nhưng đó vẫn là những đất nước chưa có dân chủ, vẫn là những “xã hội hình tháp – social pyramid” nói theo ngôn từ của nhà xã hội học Miến Kyaw Nyein, với đỉnh tháp là thiểu số thống trị và dưới đáy vẫn là đa số những người dân nghèo khổ bị khai thác và bóc lột.