- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Tồn Tại - ước nguyện muôn đời

09 Tháng Sáu 20169:33 CH(Xem: 27839)
DAU CHAN TREN CAT

“Xin lỗi mẹ, con đã dấu vệt máu bầm trên vai

Chẳng biết từ dùi cui hay nắm đấm

Nhưng mẹ ơi! khi bị kéo lê trên đất

Là lúc con nhìn thấy được cả bầu trời xanh

Là lúc con cảm nhận nỗi tủi nhục của dân mình

Nếu hôm nay con không có mặt”  (Hương Giang)

 

Những câu thơ trên nhắc tôi nhớ đến lời chào tạm biệt vào cuối cuộc phỏng vấn của một nhà hoạt động: “chúc mọi người sáng suốt, vững vàng để chúng ta cùng tồn tại.” Cùng tồn tại là điều mà nhiều nhà hoạt động hôm nay đang vô cùng lo lắng, nhất là khi mỗi ngày phải nhìn thấy hình ảnh xác cá chết trắng dọc theo bờ biển từ Hà Tĩnh đến Huế. Xác cá hay xác của dân mình trên một mảnh đất đã khô kiệt từ tài nguyên đến linh hồn con người! Nhìn quanh, đâu đâu cũng toàn nỗi hoang mang; những câu hỏi cứ treo lơ lửng không tìm thấy câu trả lời. Liệu dân tộc mình còn tồn tại được bao lâu giữa một rừng hóa chất độc hại trong thức ăn, trong nước uống hàng ngày? Liệu dân mình có nhìn thấy hiểm họa trước mắt? Làm thế nào để đánh thức nhau, để vượt qua sợ hãi khi đất nước đang ngắc ngoải từng ngày trong tay những tên thái thú và gã hàng xóm hung bạo?                                 

***

Đất không còn lành nên chim không đậu cho dù đó là mảnh đất của ông cha mình. Mốc điểm của những ngày tháng này làm người ta nhớ đến lớp người đã âm thầm rời bỏ đất nước hơn 40 năm trước. Nếu xưa ta đau đớn biết bao thì nay hoàn toàn ngược lại; người Việt đang ước ao, khao khát tìm mọi cách để thoát khỏi Việt Nam. Không ai có thể sống bình yên khi nhìn Cửu Long giang khô hạn, chín con rồng không còn ôm những cánh đồng lúa chín mênh mông; xã hội bất ổn dẫy đầy bất công; chính phủ nhũng lạm, gian dối; người dân đói nghèo sẵn sàng thuốc chết nhau bằng thực phẩm độc hại; lãnh đạo khiếp nhược tiếp tục dập đầu trước mẹ ghẻ Bắc Kinh …

Nhiều lúc chúng ta vẫn tự thầm hỏi có hay không những tấm lòng, có hay không những giọt lệ nhỏ xuống trước những tai ương nối tiếp tai ương? Các thế hệ tương lai, con cháu chúng ta sẽ sống ra sao? Ai đã làm gì đất nước này? Chúng ta đã làm gì đất nước này? Đâu phải ai ai cũng có điều kiện dễ dàng để rời bỏ Việt Nam ngoại trừ thiểu số giàu có, hay các quan chức CS và con cháu của họ. Để tồn tại, để sống còn là chuyện của tất cả chúng ta, của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam.

Các cuộc biểu tình vào những ngày cuối tuần của tháng Năm đã cho thấy khá rõ suy tư của nhiều người dân thầm lặng. Với sự kiên cường lạ lùng trước các trấn áp tàn bạo của đội ngũ công an, dân phòng, … đã lần đầu tiên cho thấy khát vọng tồn tại của dân ta. Có rất nhiều những khuôn mặt trẻ, rất nhiều những khuôn mặt lạ lần đầu tiên xuất hiện. Đã có đánh đập, đã có đổ máu nhưng hình ảnh người mẹ trẻ với khuôn mặt sưng húp ôm chặt lấy con chị trong vòng tay đã nói lên thật nhiều điều. Nếu nhìn về mặt tích cực, thái độ hung hãn - bất chấp người dân, đánh cho sợ - của lãnh đạo đảng đã thực sự giúp cho nhiều người thức tỉnh. Im lặng không còn là an toàn. Im lặng là chấp nhận cho chính mình và các thế hệ tương lai chết dần trước những tai hoạ do sự tham lam của lãnh đạo CS đem lại.

Điều đáng kể là đã có nhiều bậc cha mẹ đem theo con nhỏ trong các cuộc biểu tình này. Một số người bị bắt ném lên xe buýt đã run rẩy lo sợ khi các con nhỏ của họ bị bỏ lại trên đường phố. Bài học đầu đời cho các bé không êm ái như những trẻ em của các quốc gia khác. Người mẹ trẻ Ubee đã trao cho con gái chị bài học về quê hương có cả dùi cui và nước mắt. Tôi chắc bé Saphie sẽ nhớ mãi ngày hôm ấy.

Cách đây không lâu, tôi được xem một đoạn phim ngắn (video clip) của một bé gái Nhật Bản. Em chỉ độ bảy tám tuổi thôi, nhưng hành động của em chắc đã khiến nhiều người phải suy ngẫm về những giá trị cốt lõi của công dân tí hon này. Em bé mặc một bộ đồng phục áo trắng, váy xanh, đeo ba lô bình thường như bao cô bé tiểu học khác. Em đang trên đường đến trường. Đến một đoạn băng qua đường thì có một chiếc xe đậu lấn vào làn ranh dành cho người đi bộ. Với thái độ rất tự nhiên, bé gái dừng lại trước đầu xe, em chỉ cao hơn mũi xe một cái đầu. Em dơ hai ngón tay ra hiệu cho ngưới tài xế phải lùi lại, khi xe đã lùi một quãng, em lại bước thêm vài bước nữa để buộc xe lùi đúng lằn qui định. Lúc ấy đèn xanh bật lên, nhiều xe khác đã chạy qua nhưng chiếc xe nọ vẫn phải dừng vì em còn đứng đó. Chờ cho đến khi xe đậu vào đúng vị trí cho phép, em từ từ quay lại lằn ranh dành cho người đi bộ rồi lon ton chạy qua đường.

Chỉ với sự nhắc nhở của một bé gái, tôi đoan chắc là từ giây phút ấy trở về sau, người tài xế kia sẽ không bao giờ đậu xe lấn vào lằn ranh dành cho người đi bộ. Ý thức của một công dân đã được các bậc cha mẹ phả vào tâm hồn của bé gái ấy ngay khi còn thơ bé. Ý thức và nền tảng ấy quan trọng vô cùng, khi chỉ ra cái sai trái của người tài xế, bé gái ấy đã chứng tỏ sự hiện hữu của mình.

Chúng ta có hơn 90 triệu dân nhưng chúng ta đã khước từ sự hiện hữu đó. Khi mất Ải Nam Quan, đa số dân ta không dám lên tiếng. Khi lãnh đạo dâng nhượng lãnh thổ và lãnh hải cho Trung Quốc, ta im lặng. Ta cam chịu ngay cả khi Trung Quốc bắn chết 9 ngư dân ở Thanh Hóa lần đầu tiên. Để rồi kể từ ấy đến nay, trong tay lãnh đạo CS, đất nước phải gánh chịu hết thảm họa này đến thảm họa khác. Kịp đến khi ta nhận ra thì Cửu Long đã khô hạn, cá chết, muối nhiễm độc… kẻ thù và sự diệt vong đã đứng hẳn trong nhà.

***

Một điều mà xưa nay dân tộc ta luôn ghi nhớ : để được tồn tại đến ngày hôm nay, bên cạnh một đất nước bá quyền từng chinh phạt và muốn nuốt chửng cả thế giới - chưa hề là một phép lạ. Không phải chỉ ngày hôm nay mà hàng nghìn năm trước, rất nhiều lần Trung Quốc đã mong muốn nô lệ hóa và bóp chết dân tộc ta. Nhưng sự hung hãn của quân xâm lược phương Bắc ngày trước cũng chính là thước đo lòng ái quốc của quân dân Đại Việt. Cũng như vậy, sự đàn áp hung bạo của lãnh đạo cộng sản những ngày qua đang là thước đo sức mạnh trỗi dậy của người dân hôm nay.

Chỉ từ hơn một tháng qua, chúng ta mới dám hi vọng về sự tồn tại của dân tộc mình trước sự xuất hiện của Lòng Dân qua những khuôn mặt rất trẻ, rất vững vàng trong đoàn biểu tình. Nhưng muốn tồn tại, chúng ta cần phải có Số Đông một dạ một lòng. Số Đông của những bậc cha mẹ thương yêu con cái và biết cách âu lo cho tương lai của chúng; của thanh niên thiếu nữ biết quên nỗi sợ áo cơm mà nhớ đến nỗi sợ diệt vong; của kẻ sĩ tỉnh thức thấy rõ cái danh hão là nhục, cái khôn lỏi là hèn. Và sau cùng, của tầng lớp công an hung ác đang tiếp sức cho hệ thống bạo lực; sớm biết dừng lại vì hiểu rõ hiểm nguy của chính mình trong tình trạng đất nước chạng vạng sắp tới bình minh.

Để thể hiện sức mạnh hiện hữu thực sự, Số Đông ấy cần học cách đứng sát cạnh nhau để bù đắp những khiếm khuyết và bảo vệ nhau trong lúc nguy nan. Hãy sáng suốt và bao dung cất giữ vào quá khứ tất cả những lỗi lầm của nhau hôm qua, để kẻ thù không thể tiếp tục tung hoả mù khiến chúng ta hao tổn sức lực đánh nhầm vào anh em. Số Đông ấy lúc đó mới thực sự là con dân của 4000 năm, của Lý Thường Kiệt, của Trần Hưng Đạo, của Quang Trung Nguyễn Huệ,… tự tin, vững vàng, bước tới giành lại sự tồn tại mà ông cha ta đã gìn giữ suốt bao đời.

Những cuộc biểu tình vừa qua đã cho thấy rõ khát vọng tồn tại của dân ta. Nhưng đó chỉ mới là những đốm lửa nhỏ, chúng ta cần kiên trì tiếp lửa cho nhau để tạo thành số đông, đủ sức giải quyết bằng được  những vấn nạn của đất nước. Biển chết, muối nhiễm độc, đất ngập mặn… tổ quốc đang lâm nguy từng ngày. Số phận Việt Nam nằm trong tay của người dân Việt Nam. Hãy chọn lựa chỗ đứng của chính mình. Cùng lúc, lãnh đạo CS cũng muốn tồn tại. Họ muốn trở thành Theinsein hay ra đi như Gaddafi là chọn lựa của họ. Chúng ta muốn duy trì Việt Nam hay trở thành Tây Tạng thứ nhì là chọn lựa của chính chúng ta.


NGUYỆT QUỲNH
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Năm 20198:54 CH(Xem: 19379)
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình trung nông lớp dưới. Bố Huy Cận đậu tam trường làm hương sư ở Thanh Hoá, sau về quê dạy chữ Hán và làm ruộng. Mẹ Huy Cận là cô gái dệt lụa làng Hạ nổi tiếng ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ.
24 Tháng Tư 201911:02 CH(Xem: 20331)
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Trong cuốn sách của mình với tựa đề "và Sài Gòn sụp đổ" (Et Saigon tomba - Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện 'quan trọng nhất' với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris: Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là "một người minh mẫn và nắm vững tình hình". Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
17 Tháng Tư 20197:44 CH(Xem: 19997)
Tám bài thơ viết về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên mà chúng tôi đã/ sẽ khảo sát đều được đại thi hào Nguyễn Du viết khi chu du trên sóng nước Tiêu Tương, vùng Hồ Nam - nơi nổi tiếng với “Tiêu Tương bát cảnh” từng thu hút cảm hứng vô hạn của bao thế hệ văn nhân, nghệ sĩ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…
08 Tháng Tư 20199:47 CH(Xem: 18875)
Khoảng thời gian ba thế kỉ XVII-XVIII-XIX là thời thịnh của thể loại truyện nôm. Các nhà văn thời này đều có chấp bút và đã lưu lại nhiều tác phẩm văn chương lôi cuốn nhiều thế hệ người đọc. Truyện Phan Trần là một truyện nôm ra đời trong thời kì này, cụ thể là khoảng cuối thế kỉ XVIII, trễ lắm là đầu thế kỉ XIX.
02 Tháng Tư 201910:27 CH(Xem: 21474)
Cũng như hai bài thơ Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu đã khảo sát ở phần I, trong các bài thơ còn lại về chủ đề này, Nguyễn Du vẫn say mê trò chuyện, luận bàn, thậm chí tranh cãi với Hồn oan nước Sở từ hơn hai ngàn năm, như hồn đang hiển hiện quanh quất bên mình, trên dòng sông lịch sử tựa một nấm mồ lớn đang vùi lấp thân xác của một con người tri âm tri kỷ đặc biệt đối với ông.
09 Tháng Ba 201910:26 CH(Xem: 22674)
Hơn hai trăm năm trước, trong một cuộc “Bắc hành”, đại thi hào Nguyễn Du đã viết tới tám bài thơ chữ Hán về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên. Trong “tòa lâu đài” thơ chữ Hán Nguyễn Du (Mai Quốc Liên), có một mảng thơ rất quan trọng là nói về các danh nhân văn hóa - lịch sử, đặc biệt là về các bậc thầy văn chương Trung Hoa. Tám bài thơ nói trên mà chúng tôi sẽ khảo sát có trữ lượng suy tưởng - cảm xúc cực kỳ phong phú, sâu sắc, cho thấy cả trái tim lớn của đại thi hào nước Việt dành cho một nhà thơ-nhà ái quốc vĩ đại của Trung Hoa cổ xưa, đồng thời thể hiện bút pháp siêu việt của Nguyễn Du trong khả năng khám phá chiều sâu tâm hồn bản thân lẫn đối tượng miêu tả, trong sự sáng tạo về nghệ thuật ngôn từ của một nhà văn-nghệ sĩ Việt Nam kiệt xuất thời Trung đại.
05 Tháng Ba 20198:59 CH(Xem: 22294)
Huế là xứ thơ. Có lẽ do các yếu tố lịch sử, phong cảnh và nếp sống, vùng đất sông Hương núi Ngự là nơi sản sinh ra nhiều nhà thơ – cả nổi tiếng lẫn khét tiếng. Nếu kể hết tên, chắc chắn sẽ thiếu sót. Bài này chỉ viết lơn tơn – không phải với mục đích phê bình văn học hoặc tài liệu giáo khoa gì ráo – về hai tác giả mà cuộc đời và sự nghiệp có những liên hệ oái oăm về thân tộc và chỗ đứng của họ trên văn đàn và trong lòng độc giả.
24 Tháng Giêng 201911:51 CH(Xem: 20585)
Lâu nay, trong tiếng gào khóc của người dân oan khắp ba miền đất nước, hoà trong nước mắt bao giờ cũng có những kể lể, trách mắng, đầy phẫn uất với tiếng “nó”: nó đến kìa; nó rình rập; nó ác lắm;… hay chúng nó tàn nhẫn lắm!
03 Tháng Giêng 201911:15 CH(Xem: 26804)
Chữ Nghiệp mang sắc thái đạo Phật đó được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học phân tích khá kỹ lưỡng, xoay quanh thuyết Thiên mệnh hay Định mệnh, thuyết Nghiệp báo - Nhân quả chủ yếu để nói về thân phận nhân vật nàng Kiều. Nhưng thiết nghĩ, hai câu thơ ấy, đầu tiên phải vận dụng ngay cho chính tác giả của nó. Cái Nghiệp đó, đối với Nguyễn Du, từ thời trai trẻ, đã được ông coi như “án phong lưu” mà ông phải tự nguyện mang tới suốt đời! (Phong vận kỳ oan ngã tự cư)(2). Nghiệp gì vậy? Có điều gì hệ trọng và thống thiết buộc Nguyễn Du phải bật lên lời tự vấn về giá trị sự tồn tại của ông trong cõi đời phù du này khiến nhiều thế hệ người Việt Nam phải xúc động và gắng tìm hiểu nguyên do: Trước khi chết còn lo mãi chuyện nghìn năm (Thiên tuế trường ưu vị tử tiền. Mộ xuân mạn hứng) - Không biết hơn ba trăm năm sau, Thiên hạ ai là người khóc Tố Như? (Bất tri tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Độc tiểu thanh ký).
14 Tháng Mười Hai 201810:00 CH(Xem: 27494)
Này nhé, lấy cảm hứng, phỏng theo, hay gì gì đó mà không ghi nguồn thì tức là cầm nhầm bài thơ, dù có biện hộ thế nào đi nữa cũng nói lên "đạo đức và tư cách " của cái việc cầm nhầm. Tài năng như khói, danh vọng như mây, nếu không muốn thiên hạ biết thì đừng có làm như cố tình quên.