- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Thời điểm của canh tân

14 Tháng Sáu 201412:00 SA(Xem: 37443)


tieuluan-tranvu-contentKhác với quân đội của các đế quốc, quân đội Việt Nam đã luôn phải xây dựng sức mạnh trên chính lòng ái quốc của dân tộc mình. Ngay cả khi Đại Nam đạt đến sức mạnh của một đế quốc Đông Dương, quân đội Đại Nam chưa biết vận dụng sức lực của các sắc tộc Chàm, Ai Lao hay Thủy Chân Lạp. Sức mạnh của quân đội Việt Nam là sức mạnh của sự đoàn kết, chết để giữ đất và chết để mở đất, của sắc tộc Kinh. Mạc Cửu ở Hà Tiên là một biệt lệ.

Ngược hẳn, quân La Mã hay Thập Tự Chinh là một hỗn hợp các sắc dân tham chiến vì lý tưởng chinh phục hoặc chống Hồi giáo. Gần hơn, quân đội Anh trong hai thế chiến tập hợp lính Ái Nhĩ Lan, Tân Tây Lan, Gia Nã Đại, Úc, Nam Phi và Ấn Độ, tinh thần ái quốc không hẳn là động cơ tham chiến của những người lính này. Trường hợp Quân đội Liên hiệp Pháp không khác. Quân đội Pháp sử dụng một bộ phận lớn lính Ma-rốc, Algérie, Tunisie, Sénégal, Congo, Cameroun và binh chủng Lê dương. Trên chiến trường Việt Nam, lính ngoại quốc đông hơn lính Pháp, 52% quân số Lê dương là cựu binh Đức. Có thể viết: Sức mạnh của các quân đội đế quốc là sức mạnh tổng hợp, xây dựng trên sức tổng hợp các lý thuyết, nhân chủng, nguyên vật liệu, kỹ thuật, tài chánh và cả lý tưởng.

Quốc gia Việt Nam chưa đạt đến sức mạnh này, tinh thần ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất.

Đến chiến tranh Việt-Pháp, quân đội Việt Nam gặp thử thách: Lần đầu tiên phải đương đầu với quân đội Tây phương. Quân nhà Nguyễn thất bại liên tiếp khiến triều đình Huế phải ký các hòa ước Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Quý Mùi 1883, rồi đến hòa ước Giáp Thân 1884, tức hòa ước Patenôtre, công nhận vĩnh viễn nền bảo hộ Pháp. Lòng ái quốc đã không tạo ra đủ sức mạnh để thắng các phương tiện kỹ thuật của đối phương. Chiến thắng của quân viễn chinh Pháp là chiến thắng của một nền công nghiệp nặng đã nghiền nát một nền nông nghiệp lạc hậu. Một cách khác, quân đội nhà Nguyễn tụt hậu kỹ thuật đến mức mà tinh thần ái quốc và lòng can đảm không thể bù đắp. Cái chết tiết tháo của các đại thần Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu để lại trong lòng dân tộc vô vàn thương tiếc, cùng kính trọng. Nhưng những cái chết này không cứu vãn được nền độc lập quốc gia, chúng cứu vãn duy nhất danh dự của một giai cấp quan triều.

Canh tân trở nên cần thiết. Nhưng không phải lúc nào quốc gia cũng có đủ thời gian và đủ khả năng canh tân. Lịch sử là một chuỗi cơ hội mà chỉ những quốc gia nào biết kịp nắm bắt mới có thể giành lấy những cơ hội kế tiếp.

Hệ thống dân vận và Viện Sử học Hà Nội cố gắng tìm ra những điểm tương đồng giữa phong trào Tây Sơn với Chính quyền Cộng Sản. Trong thực tế, nhìn theo chiều dài lịch sử, chính phủ Việt Nam đương quyền có nhiều điểm tương đồng với nhà Nguyễn và rất khác Tây Sơn trong cách đối đầu với phương Bắc. Trên mặt quân sự, quân nhà Nguyễn đã tiến vào Nam Vang lập Trấn Tây thành nhưng không bình định được Chân Lạp, Quân đội Nhân dân cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Trên mặt chính trị, chính quyền Tây Sơn không thật sự thần phục nhà Thanh trong lúc các triều vua Nguyễn đã luôn nhìn về phương Bắc và phụ thuộc vào động thái của Thanh triều trong phương cách ngoại giao với Tây phương. Chính quyền Việt Nam hiện nay ứng xử tương tự.

Điểm tương đồng lớn nhất giữa chính phủ hiện tại với nhà Nguyễn nằm ở sự chậm trễ canh tân sau khi thống nhất đất nước.

Kể từ thế kỷ 19, lịch sử dân tộc cho phép duy nhất hai thời kỳ khả dĩ có thể canh tân quân đội: Bốn triều vua đầu nhà Nguyễn và từ thập niên 90 đến nay. Các giai đoạn khác, quốc gia chìm đắm trong chiến tranh và loạn lạc.

Hoàng đế Gia Long có nhiều thuận lợi: Mối giao hảo ban đầu khá tốt đẹp với Pháp hoàng, ngay cả khi Pháp hoàng Louis XVI bị cách mạng đánh đổ, đường dây ngoại giao đã thiết lập, và ngay cả khi mối quan hệ này đứt đoạn, Âu châu đang chìm trong chiến tranh của Nã Phá Luân cho phép Đại Nam một thời kỳ dài bình yên. Các giám mục, giáo sĩ, kỹ sư theo phò Gia Long đã chứng tỏ trung thành và đắc lực. Một chính sách phổ biến kiến thức của các kỹ sư này, một cách quy mô, mở mang công xưởng và tận dụng tri thức Tây phương bằng cách thuê mướn người Âu châu như Nhật Bản sẽ thực hiện về sau, đã có thể cải tổ quân đội Đại Nam một cách hữu hiệu. Gia Long còn thừa hưởng âm vang của hai chiến thắng Rạch Gầm và Đống Đa của Nguyễn Huệ, khiến Xiêm La và Đại Thanh quốc nể vì. Gia Long đã không tận dụng những ưu thế này.

Các hoàng đế kế nhiệm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã không nhìn thấy bối cảnh thế giới vẫn còn thuận lợi và Đại Nam là một trong những quốc gia mạnh ở Á châu, kể cả khi so sánh với Nhật Bản.

Phía Bắc, Thanh triều phải đối đầu với các nội loạn triền miên ở Lưỡng quảng cho đến 1864 mới dẹp yên Hồng Tú Toàn. Cuộc chiến với Thái bình Thiên quốc làm Thanh triều kiệt quệ. Phía Đông Bắc, Cao Ly đang bị Mãn Thanh chiếm đóng, còn Nhật Bản vẫn đóng cửa không giao tiếp với thế giới. Nhật Bản liên tiếp trải qua 11 trận đói trong suốt một thế kỷ rưỡi, mà nạn đói sau cùng diễn ra vào năm 1837. Các sứ quân Tokugawa suy yếu dần.

Phía Nam, Mã Lai không đủ sức uy hiếp Đại Nam. Phía Tây Nam, Xiêm La với 4 triệu dân không cản được Trương Minh Giảng tiến vào Chân Lạp. Phía Tây Bắc, vương quốc Miến Điện với 3 triệu dân không có cả quân đội chính quy để gây hấn với Đại Nam. Lính Miến, trưng binh khi chiến tranh, không được tổ chức thành một đạo quân thường trực.

Phía Đông, biên giới Hoa Kỳ chỉ chạm đến Thái Bình dương vào năm 1848 sau khi giành lấy California từ tay quân đội Mễ. Hiểm nguy đến từ Âu châu. Tuy nhiên, ngoài các thương điếm, Hòa Lan và Bồ Đào Nha không đủ sức mở những cuộc viễn chinh lớn. Tây Ban Nha tuy hiện diện ở Phi Luật Tân đã bắt đầu chu kỳ suy tàn. Đế quốc Phổ, một sức mạnh lục địa, không ưu tiên xây dựng hạm đội và hãy còn đang tìm cách chế ngự quân đội Pháp. Trường hợp Pháp, tiềm năng khoa học kỹ thuật và tham vọng vẫn tràn đầy nhưng hải quân Pháp bị tiêu hủy trong thủy chiến Trafalgar chưa vực dậy. Đế chế Nga tập trung sức lực hoàn thành tuyến đường hỏa xa xuyên Tây Bá Lợi Á để tiến vào Mãn châu bằng đường bộ, vì Bắc Băng dương đóng băng quanh năm, khiến tham vọng Nga giới hạn vào Bắc Á. Hoàng gia Anh đã bắt đầu xuất hiện ở miền duyên hải Miến Điện và Mã Lai ngay từ 1826, mở các thương điếm và ký thương ước. Trước yêu sách của các công ty hàng hải Peninsular and Oriental và Cunard Line, các triều vua George rồi Victoria sẽ gửi thêm chiến thuyền sang Á châu nhưng tập trung vào các vùng đất vừa khám phá ở Úc và Tân Tây Lan, rồi Trung Hoa, khiến lãng quên Đại Nam.

Các vua đầu triều Nguyễn, như thế, vẫn còn thời gian. Ngoài hai năm khởi loạn của Lê Văn Khôi và động loạn của vài bộ tộc thiểu số ở miền Thượng du Bắc Việt, nhà Nguyễn có sự ổn định ngai vàng và đã biết đến sự hiện diện của một nền văn minh khác ở Tây bán cầu, và chính sự hiện diện của nền văn minh này mới có thể giúp canh tân nếu có một chính sách đối ngoại vừa trung lập, vừa tương tác với nhiều quốc gia, vừa mở cửa tiếp nhận kỹ thuật Tây phương. Trong suốt sáu thập kỷ, từ lúc Gia Long tiến vào Phú Xuân cho đến khi Tự Đức nhận tối hậu thư của Pháp, triều Nguyễn đã không canh tân. Chính sự thụ động này đã kết án số phận dân Việt, một kết án chung thân khi những canh tân quyết định thế giới diễn ra trong thế kỷ 19.

Nhà Nguyễn đã không áp dụng phương châm của Bismarck: "Chính trong thời bình phải đúc súng."

Sang thế kỷ 20, đầu thập niên 90, lịch sử đem đến cho dân tộc một cơ hội thứ nhì. Trước đó, Chính quyền Cộng Sản đã bị cả hai đế quốc Trung Hoa và Hoa Kỳ cô lập. Trong mặt nội chính, chính quyền này đã tự cấm vận tri thức của dân tộc khi không cho phép bất kỳ một giao dịch nào với thế giới. Thập niên 90, cánh cửa mở ra bên ngoài phơi bày hình ảnh của một quốc gia tụt hậu. Dân chúng ý thức rất rõ: Việt Nam đã bị nhân loại qua mặt. Tuy vậy, quốc gia không nội loạn, đầu tư thế giới đã vực dậy kinh tế, sự thay đổi chiến lược của các đế quốc, sự thay đổi các ý thức hệ, vị trí và tiềm năng quốc gia dần khôi phục cho phép dân tộc một hy vọng. Nhưng cho đến phút này, tiến trình công nghiệp nặng và hiện đại hóa toàn diện quân đội vẫn còn phôi thai. Có thể giải thích vì Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo, dân trí thấp. Câu trả lời là nếu không canh tân, sẽ không bao giờ có thể nâng cao dân trí và nâng cao mức thu nhập quốc dân mà không vay mượn.

Hiểm nguy Trung Hoa còn là một lý do cấp thiết. Thời Mã viện, dân tộc bị đô hộ vì thua kém binh lực mà quyết tâm không để bị đồng hóa còn cho phép khởi nghĩa giành lại đất đai, quyền làm người. Dưới triều Tự Đức, dân tộc bị đô hộ vì không thể bắt kịp kỹ thuật Tây phương, vì đã không hiểu các cuộc xâm chiếm nằm trong một chuyển động toàn cầu, trong phân chia giữa các đế quốc. Cả hai nguy hiểm hôm nay nhập một. Với kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa.

Nếu thập niên 70 tương đương với nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn và chấm dứt khi Nguyễn Ánh vào Phú Xuân, thập niên 80 tương đương với triều Minh Mạng tiến quân vào Chân Lạp rồi đồn trú và sa lầy, thì thập niên 90 cũng tương đồng với giai đoạn chuyển tiếp của triều Thiệu Trị. Hôm nay, sang thập niên 2010, dân tộc đã ở vào giữa triều Tự Đức mà hiểm nguy đã trông thấy. Nếu chậm trễ, quốc gia sẽ lâm vào hoàn cảnh của Tự Đức còn chưa đầy một thập niên trước khi nhận tối hậu thư của giặc. Một cách khách quan, ở vào giữa triều Tự Đức là đã muộn. Vì vận tốc canh tân của quốc gia, nếu thực hiện, vẫn chậm hơn vận tốc phát triển kinh tế, binh lực, vũ khí hiện đại của Bắc Kinh đã đạt đến tầm mức lớn. Nhưng dân Việt vẫn muốn tin hãy còn kịp, chưa muộn.

Phải canh tân trước khi một Yalta thứ nhì chia chác các vùng ảnh hưởng được ký kết giữa các đế quốc Nga, Hoa, Mỹ, như đã xảy ra vào tháng 2-1945 giữa Churchill, Roosevelt và Staline, trao những tiểu quốc này vào tay đế quốc kia và những tiểu quốc khác vào tay đế quốc nọ. Với một phân vùng như vậy, Việt Nam sẽ không thoát được số mệnh trở thành chư hầu của Trung Hoa và tương lai dân Việt sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào lương tâm Bắc Kinh.

Hạn chót của canh tân đất nước đã điểm.

Trần Vũ
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Sáu 20151:37 SA(Xem: 31125)
Mặc Đỗ nhà văn, nhà báo, dịch giả là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở cái tuổi 58 còn tràn đầy sức sáng tạo nhưng anh đã chọn một cuộc sống quy ẩn, chữ của Mai Thảo. Mặc Đỗ gần như dứt khoát không xuất hiện hay có tham dự nào trong sinh hoạt cộng đồng văn chương ở hải ngoại -- [biển ngoài, chữ của Mặc Đỗ], thái độ chọn lựa đó khiến tên tuổi anh hầu như rơi vào quên lãng.
23 Tháng Năm 20153:54 SA(Xem: 34760)
Nền văn chương minh họa và phải đạo bén rễ sau thời Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) kéo dài hơn hai mươi năm bỗng hóa thân vào thời đầu Đổi Mới năm 87- 89 với những tác phẩm vượt trội. Xin tri ân tướng Trần Độ. Xin cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc. Cả hai vị này đã phà duỡng khí hồi sinh vào thây ma của thứ văn chươngvô hồn rập khuôn chính sách văn hóa Liên-Xô đã tạo ra những Quần Đảo Ngục Tù ( goulag) rồi còn lại kẹp thêm tính Mao-nhiều &Mao-ít hậu phong kiến đội tên giả là xã hội chủ nghĩa.
22 Tháng Năm 20153:47 SA(Xem: 42451)
Xung quanh câu chuyện Nguyễn Thị Lộ (NTL) và mối hoạ chu di của dòng họ Nguyễn Trãi quả đã không ít giấy mực bàn cãi, kể cả lý luận, nghiên cứu cho đến văn , thơ, kịch... đã có đến hàng trăm bài viết. Nhìn chung các loại ý kiến chưa thật thống nhất và tính thuyết phục chưa thật cao (1)...Chúng tôi xin được bàn thêm đôi điều về nghi án này với quan điểm không để tình cảm, thiên kiến lấn át sự thật.
13 Tháng Năm 20155:54 CH(Xem: 30369)
Với Nguyên Ngọc và Văn đoàn Độc lập, vấn đề còn nguyên. Làm gì với tự do đã giành lại sau khai trừ rồi ly khai? Làm gì với mục đích độc lập tách rời ra khỏi Hội? Ra khơi, lên đường, hay lo ngại “phạm pháp” sẽ khiến nhòa nhòa trong vận hành của hệ thống? Tháng 5-1954, hai chữ “Độc lập” thét vang trong lồng ngực của năm mươi ngàn binh sĩ chiến thắng trận Điên Biên, để cuối cùng là một nền độc lập hà khắc trong toàn trị. Tháng 5-2015, “vì một nền văn học Việt Nam tự do, nhân bản” in đậm trên trang web của Văn đoàn Độc lập. Công chúng trông chờ câu trả lời.
26 Tháng Tư 20151:48 SA(Xem: 31130)
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Đặng Tiến 28-10-1998] Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà, Một mình...
20 Tháng Tư 201512:22 SA(Xem: 31374)
Ngày 30-4, ngày nếu có một triệu người vui, cũng là ngày có một triệu người buồn. Câu nói trong quá khứ của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng chủ trương chính sách Đổi Mới, được lập đi nhắc lại nhưng liệu có còn chính xác với tình thế hiện tại của đất nước ? Ngày nay, kinh tế tụt hậu, hàng xuất là lao động giá bèo, cái đinh vít cũng không làm được mà nhập hàng ngoại tuốt tuột, nợ chồng chất. Rồi tham nhũng lên đỉnh cao, đạo đức xã hội xuống cấp...
22 Tháng Ba 20153:31 SA(Xem: 30720)
Nguyễn Xuân Hoàng trong số báo Văn đặc biệt về TTT, đã viết: "Thanh Tâm Tuyền như ngọn cờ đầu của thơ tự do Việt Nam, người làm mới thi ca Việt Nam." (2) Đặng Tiến khi viết bài tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền đã bày tỏ ít nhiều tiếc rẻ là "lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế."
18 Tháng Hai 20159:45 SA(Xem: 37926)
Vậy mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
02 Tháng Mười Một 20141:53 SA(Xem: 40194)
Hồ Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang vào đời Hậu Hán thời Ngũ Đại (947 – 950) sang làm Thái thú lộ Diễn Châu (Nghệ An). Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột thuộc lộ này, làm trại chủ đến đời thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại tỉnh Thanh Hóa, làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình.
10 Tháng Mười 20141:45 SA(Xem: 43870)
Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia” . Sự tranh luận này có chiều hướng phủ nhận quan điểm cũ của các tiền bối cũng như những người tin theo họ để bảo vệ cho cách đọc “cái đa đa”.