- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

30-4, hận thù hóa giải?

20 Tháng Tư 201512:22 SA(Xem: 31360)


30-THANG 4  

 

Ngày 30-4, ngày nếu có  một triệu người vui, cũng là ngày có một triệu người buồn. Câu nói trong quá khứ của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng chủ trương chính sách Đổi Mới,  được lập đi nhắc lại nhưng liệu có còn chính xác với tình thế hiện tại của đất nước ? Ngày nay, kinh tế tụt hậu, hàng xuất là lao động giá bèo, cái đinh vít cũng không  làm được mà nhập hàng ngoại tuốt tuột, nợ chồng chất. Rồi tham nhũng lên đỉnh cao,  đạo đức xã hội xuống cấp, bạo hành từ nơi công  quyền đến lề đường  xó chợ,  dân oan mất nhà mất đất vẫn chỉ biết kêu thất thanh trên khắp ba miền, và nhất là hiểm họa mất biển mất đất vào tay  những  ‘’ đồng chí  đàn anh ‘’ phương Bắc ngày một trầm trọng. Nên nếu có một  triệu người vui, số người  buồn chí  ít cũng phải vài chục triệu. Thế nhưng guồng máy quyền bính đương thời  đang chuẩn bị các loại lễ hội, xây dựng một lô tượng đài, chắc hẳn những từ ngữ  như chiến thắng, giải phóng...sẽ lại phô trương đến bị bào mòn để lẩn vào vô thức một  dân tộc mà sự phân hóa có khả năng trở thành phân liệt chia rẽ dài hạn. Trong trường hợp này, người Việt chúng ta  không  tập hợp được nội lực dân tộc  lẽ ra phải có, đất nước tụt hậu dài dài, chủ quyền bị gậm nhấm rồi và chẳng  thế nào tránh được  thân phận nô thuộc ngoại bang.  

Ngày 30-04-1975  là ngày kết thúc một cuộc chiến tranh, có người gọi là chiến tranh giải phóng, người  cho là chiến tranh ủy nhiệm của hai khối Tư Bản và Cộng Sản đối đầu trong thời Chiến Tranh lạnh...Dù gì, khí giới là khí giới Nga, Tàu, Mỹ...và xác người, xác Việt Nam mà con số tử trận và  thương vong lên đến cả chục triệu.  Năm nay, năm 2015.  Sau 40 năm hò reo chiến thắng và vinh quang, lẽ ra những người đang nắm quyền lực phải nghĩ, dẫu muộn, đến vấn đề  hóa giải hận thù trong lòng  người Việt Nam  trong nước cũng như ở hải ngoại. Ngược dòng lịch sử nước ta, ngay sau khi chiến thắng quân Nguyên xâm lăng 800 năm trước, Vua Trần Thánh Tông, một minh quân kiệt xuất, đã đốt hết thư tịch làm bằng chứng tố cáo đám người theo giặc, tránh trả thù , không truy bức để yên lòng dân. Trong cuộc nội chiến Nam-Bắc ở Mỹ, điều kiện đầu hàng mà tướng Grant phía Bắc- quân (Union) viết cho tướng Lee phía Nam-quân (Confederate) ghi rõ chỉ tịch thu khí giới,  cho phép binh lính Nam-quân về làm ăn sinh sống bình thường trong đời sống dân sự. Nhưng năm 75, chính quyền gọi là chính quyền Cách Mạng, tiếp tục dùng  chữ ngụy-quân, ngụy-quyền để chỉ những người  thua trận, và sau đưa ra chính sách học tập cải tạo mà mục đích là cầm tù hảnh hạ họ, ra  oai để yên dân bằng sự sợ. Chính sợ hãi là yếu tố khiến hàng trăm ngàn thuyền nhân liều mạng phiêu lưu trên biển cả, đánh cược mạng sống của mình và gia đình, hậu quả là số bỏ mạng lên tới trên dưới  500 ngàn người.  Đào sâu, đục rộng  sự phân hóa nhưng leo lẻo chuyện hoà hợp hòa giải dân tộc chỉ là mảnh  vải thưa, làm sao che mắt ai trong thời buổi thông tin bừng nở của thiên niên kỷ này.

Hóa giải hận thù, điều kiện cần  

Trong hầu hết mọi tôn giáo - ở nước ta chủ yếu là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo - hận thù là cái phải cởi, không nên buộc. Hoá giải hận thù là điều kiện cần khiến hòa giải mới có khả năng thành hiện thực.  Hòa giải giữa nạn nhân và những kẻ tác nghiệp chỉ khả thi khi những bên đối tác  cùng có tâm thế nhân ái bao dung, đồng thời tôn trọng sự  thật, công lý, và cố gắng xua đi những  bồng bột cảm tính. Nếu hai bên có tinh thần đối thoại,  lắng nghe và tìm hiểu lý lẽ chứ không khăng khăng xác quyết  chân lý của riêng mình,  sự tháo gỡ hoặc giảm thiểu tính đối đầu ăn thua có khả năng hiện thực, và từ đó một lộ trình hòa giải mới có thể  thành hình.

Sau ngày một phía gọi là ngày mất nước, phía bên kia gọi là ngày giải phóng,  chính sách học tập cải tạo (HTCT) đã đưa vào cảnh tù tội khổ sai cả trăm nghìn người. Nạn nhân là người trong guồng máy chính quyền VNCH, các quân nhân, trí thức văn nghệ sĩ... bị tập trung và giam giữ trung bình từ 2,3  cho đến 12, 13 năm. Những nạn nhân đó có quyền đặt một số vấn đề, chẳng hạn HTCT do đâu nếu không đơn thuần là trả thù; thời hạn giam giữ dài ngắn là vì sao, có hợp lý hợp tình không; và những hậu quả liên quan đến bản thân (bệnh tật) và gia đình họ (chia ly, phân tán...) phải được bù đắp bồi hoàn thế nào, vv...Về phía tác nghiệp, lẽ tất nhiên họ phải nhận trách nhiệm và trả đáp những câu hỏi trên. Trách nhiệm cao nhất  là trách nhiệm chính trị thuộc về những  người làm ra  chính sách, sau mới đến trách nhiệm những  người  điều hành ở  các cấp trung, cao.

Kèm vào tác động khủng bố tâm lý của chính sách HTCT, chiến tranh với Campuchia và sau là chiến tranh biên giới với Trung Quốc, kẻ ‘’dạy’’ Việt Nam một bài học,  sự hoảng sợ lan rộng trong nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là ở thành thị ngày một ngột ngạt vì không còn được sinh hoạt tự do như trước đây.  Đồng thời, phong trào đánh tư sản mại bản và hai lần đổi tiền khiến nhiều người  mất hết cơ nghiệp. Dẫu biết đầy bất trắc hiểm nguy đến tính mạng, họ đánh liều vượt biển nhân dịp người gốc Hoa ‘’được’’  ra đi chính thức  hoặc bán chính thức.  Thảm kịch thuyền nhân, với những con thuyền đuôi tôm hai blốc đầy ắp người lênh đênh tìm đường sang Phi, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương...chết chìm trong lòng Thái Bình Dương  là một vết nhơ cho chính quyền đã  không giữ nổi con dân trên xứ sở của mình mà lại còn xua đuổi và nhân cơ hội cướp trắng. Ban đầu, giá chính thức cho một  đầu người là 16 cây vàng. Sau, vàng cạn, giá tuột xuống 12, rồi 8, 6 và cho đến giữa thập niên 80 thì chỉ còn 2 cây, số cây tỉ lệ nghịch với độ rủi ro phải chấp nhận. Theo những ước lượng của Liên Hiệp Quốc, số người chết trên biển  khoàng 4 đến 5 trăm ngàn người.  Đã thế, khi những người tị nạn - nay là người gốc Việt sinh sống ờ hải ngoại - dựng tượng tưởng niệm nạn nhân vượt biển trên những hòn đảo ở Mã Lai, Nam Dương... những kẻ nắm quyền ở Việt Nam làm áp lực lên chính quyền các nước ASEAN nói trên yêu cầu  triệt hạ những bức tượng đó! Đồng thời, họ leo lẻo ‘’ Việt kiều là khúc ruột ngàn dặm’’, và mới đây vài năm ra ‘’ Nghị quyết 36’’ kêu gọi lòng yêu nước, hô hào góp tay xây dựng quê hương qua điều vốn đầu tư (và cả, dĩ nhiên,  qua  cả cách gửi tiền về giúp bà con, hiện lượng tiền gửi về nay trên dưới 10 tỷ USD mỗi năm).

Nạn nhân của chính sách ‘’thu vàng đuổi người’’ nếu đã chôn thây dưới đáy biển thì vẫn còn những người thân trong gia đình họ. Như  chứng nhân, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, họ có quyền hỏi  đâu là công  lý, tại sao có cái chính sách đó, và toàn thể nhân dân có lý do thắc mắc số vàng thu được đi đâu, vào tay ai, được xử dụng như thế nào cho đất nước. Công  khai bạch hóa những vấn đề này là một bước không nhỏ góp phần vào  triển vọng ổn định lòng người.  

Biểu hiện tinh thần hóa giải hận thù nhân ngày 30-04  lần thứ 40

Nếu thực sự chính quyền đương nhiệm không chỉ đề cập đến bốn chữ Hòa Hợp Hòa Giải như một chiêu bài  ‘’ đánh bùn sang ao’’, ồn ào rỗng tuếch, thì hy vọng họ sẽ gọi ngày 30-4 là Ngày Hóa Giải Hận Thù. Và  trong tương lai họ sẽ cho dựng ở những địa phương từ Bắc chí Nam :

1-      Tượng đài Thương Tiếc những người  lính hy  sinh trong chiến tranh, không phân biệt Bắc - Nam, Quốc- Cộng.

2-      Tượng đài Ghi Ơn mẹ Việt Nam, không cần  thêm chữ anh hùng, chữ  được hiểu là   mẹ những người hy  sinh cho chế độ độc trị hiện hành.

3-      Đàn Giải Oan cho những nạn nhân bỏ mạng trên biển cũng như đất liền ở mọi nơi.

Đề nghị thế, nhưng trước mặt chúng ta chẳng hy vọng gì vào chính quyền đương nhiệm. Theo thiển ý, 22 tổ chức Xã Hội Dân Sự Độc Lập hiện đang hoạt động trong nước có thể cổ vũ ý kiến nêu trên, thậm chí dựng tượng đài một cách tượng trưng, không cần ‘’hoành tráng’’, cái chính là trong lòng dân. Mặt khác, vào ngày 30-4,  chúng ta có thể  vận động người ra đường với áo kẻ chữ hai chữ Hóa Giải,  hoặc Ghi ơn Mẹ Việt Nam, hoặc Thương Tiếc Các Anh, như thông điệp gửi đến toàn thể đồng bào.

Hội Đồng Hòa Giải Dân Tộc

Trên thế giới, sau những cuộc đổi đời trong những quốc gia từng có những  bất công, bạo hành, và những vi phạm quyền con người...thì nhiều nước đã thành lập những Hội đồng hòa giải dân tộc (Commission for National Reconciliation, hoặc Commission for Truth and Reconciliation). Có thể kể Nam Phi khi Mandela lên nắm chính quyền, Pakistan dưới thời Musharraf, rồi Palestine, Liberia, Algeria... Ở Á châu, có  Đông-Timothy sau khi ly khai với Nam Dương. Mỗi quốc gia, vấn đề một khác. Nơi thì chủ yếu  khác biệt sắc tộc, nơi khác biệt tôn giáo... đã là nguồn gốc của hận thù và sự phân liệt  cần được hóa giải. 

Theo tinh thần chủ đạo là Hòa Giải  dân tộc nên, như một  hệ luận, phương thức tiến hành của Hội Đồng tóm gọn là:

1/  Tìm hiểu sự thật lịch sử, xác minh ai tác nghiệp (gọi là tác nhân),  và dựa trên sự xâm phạm quyền con người, ai là nạn nhân, ai là chứng nhân. Hội Đồng có trách vụ  tạo điều kiện cho họ đối thoại, giải trình, biện minh và đả thông mọi mâu thuẫn, vướng mắc...

2/ Yêu cầu nói trên  phải thực hiện với tiêu chuẩn thông tin công  khai, minh bạch của  mọi tác nhân, nạn nhân, và chứng nhân trước công luận.

3/Hôị Đồng có ý kiến về vấn đề qui trách nhiệm cho những tác nhân. Cần phân biệt a- Trách nhiệm chính trị (là trách nhiệm hoạch định chính sách); b- Trách nhiệm điều hành chính sách cấp cao và trung; và  c- Trách nhiệm dân sự.

4/Trong một số quốc gia, Hội Đồng có thẩm quyền điều tra những lũng đoạn kinh tế, thất thoát kinh tế, tham nhũng, hối lộ cửa quyền... và đề đạt lên cơ quan có thẩm quyền thuộc ngành Tư Pháp những mức độ xử lý, từ ân xá đến yêu cầu truy tố, và tùy trường hợp cụ thể, qua Toà án quốc gia hay Tòa án quốc tế.

Chỉ khi có một Hội Đồng Hòa Giải hoạch định ở cấp quốc gia vào một ngày sẽ tới thì chúng ta mới hội được điều kiện đủ để thực sự hoàn thành công cuộc hóa giải oán thù và từng bước đi đến mục tiêu hòa giải dân tộc. Con đường không ngắn, nhưng cũng  không buộc là dài. Và trong bất cứ trường hợp dài ngắn thế nào đi chăng nữa, chúng ta rồi thì cũng sẽ đối mặt với nhiệm vụ  này như một nhiệm vụ lịch sử.  Hy vọng từ đó chúng ta sẽ không dẵm lên những lối mòn đầy tai ương, để thẳng tiến trên con đường đến tương lai mà không bị xảo ngôn của những lý thuyết huyễn hão sập bẫy như từ bao nhiêu năm nay. 

Để tạm kết,  xin chép lại có chút thay đổi 4 câu thơ của Cao Tần:

Nếu mai mốt có đổi đời phen nữa

Ta đi về ta cứu lấy quê hương

Ta sẽ mở ra nghìn lò cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương.

và thành tâm mong sao các vị ‘’lo trước cái lo của thiên hạ’’, các chuyên gia, trí thức trong những ngành như Triết, Sử, Luật...và tất cả những Tổ chức Dân Sự Độc Lập góp tay vào sửa soạn nhằm thực hiện những  đề đạt trình bày trong bài viết này. Tài liệu tham khảo ghi dưới đây có thể tạm dùng trong những bước sơ khởi [i]. Tất cả, vì con em, và cho con em  chúng ta. Có thế, ta  mới ‘’ vui sau cái vui của thiên hạ ‘’ được.

Nam Dao

12-04-20

 



[i] Tham khảo:

 

1-On Good Terms: Defining Reconciliation - eDoc

edoc.vifapol.de/opus/volltexte/2011/2521/pdf/br14e.pdf

by D Bloomfield - ‎2006

 

2- National Reconciliation, Transitional Justice and the ... - IILJ

iilj.org/courses/documents/MendezArticle.pdf

by JE Méndez

 

3- Vérité, Reconciliation, Ouvrage Collectif ( Barbara Cassin, Jacques Derrida, Paul Ricoeur...), Edition Seuil, Nov 2004, ISBN 2020028864.

 

4- Ammistier l’Apartheid: Travaux de la Commission Vérité et Reconciliation, Mgr  Tutu,  prix Nobel de la Paix, Edition Seui, Nov 2004, ISBN 202068604X.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Sáu 20151:37 SA(Xem: 31112)
Mặc Đỗ nhà văn, nhà báo, dịch giả là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở cái tuổi 58 còn tràn đầy sức sáng tạo nhưng anh đã chọn một cuộc sống quy ẩn, chữ của Mai Thảo. Mặc Đỗ gần như dứt khoát không xuất hiện hay có tham dự nào trong sinh hoạt cộng đồng văn chương ở hải ngoại -- [biển ngoài, chữ của Mặc Đỗ], thái độ chọn lựa đó khiến tên tuổi anh hầu như rơi vào quên lãng.
23 Tháng Năm 20153:54 SA(Xem: 34737)
Nền văn chương minh họa và phải đạo bén rễ sau thời Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) kéo dài hơn hai mươi năm bỗng hóa thân vào thời đầu Đổi Mới năm 87- 89 với những tác phẩm vượt trội. Xin tri ân tướng Trần Độ. Xin cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc. Cả hai vị này đã phà duỡng khí hồi sinh vào thây ma của thứ văn chươngvô hồn rập khuôn chính sách văn hóa Liên-Xô đã tạo ra những Quần Đảo Ngục Tù ( goulag) rồi còn lại kẹp thêm tính Mao-nhiều &Mao-ít hậu phong kiến đội tên giả là xã hội chủ nghĩa.
22 Tháng Năm 20153:47 SA(Xem: 42433)
Xung quanh câu chuyện Nguyễn Thị Lộ (NTL) và mối hoạ chu di của dòng họ Nguyễn Trãi quả đã không ít giấy mực bàn cãi, kể cả lý luận, nghiên cứu cho đến văn , thơ, kịch... đã có đến hàng trăm bài viết. Nhìn chung các loại ý kiến chưa thật thống nhất và tính thuyết phục chưa thật cao (1)...Chúng tôi xin được bàn thêm đôi điều về nghi án này với quan điểm không để tình cảm, thiên kiến lấn át sự thật.
13 Tháng Năm 20155:54 CH(Xem: 30357)
Với Nguyên Ngọc và Văn đoàn Độc lập, vấn đề còn nguyên. Làm gì với tự do đã giành lại sau khai trừ rồi ly khai? Làm gì với mục đích độc lập tách rời ra khỏi Hội? Ra khơi, lên đường, hay lo ngại “phạm pháp” sẽ khiến nhòa nhòa trong vận hành của hệ thống? Tháng 5-1954, hai chữ “Độc lập” thét vang trong lồng ngực của năm mươi ngàn binh sĩ chiến thắng trận Điên Biên, để cuối cùng là một nền độc lập hà khắc trong toàn trị. Tháng 5-2015, “vì một nền văn học Việt Nam tự do, nhân bản” in đậm trên trang web của Văn đoàn Độc lập. Công chúng trông chờ câu trả lời.
26 Tháng Tư 20151:48 SA(Xem: 31123)
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Đặng Tiến 28-10-1998] Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà, Một mình...
22 Tháng Ba 20153:31 SA(Xem: 30710)
Nguyễn Xuân Hoàng trong số báo Văn đặc biệt về TTT, đã viết: "Thanh Tâm Tuyền như ngọn cờ đầu của thơ tự do Việt Nam, người làm mới thi ca Việt Nam." (2) Đặng Tiến khi viết bài tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền đã bày tỏ ít nhiều tiếc rẻ là "lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế."
18 Tháng Hai 20159:45 SA(Xem: 37914)
Vậy mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
02 Tháng Mười Một 20141:53 SA(Xem: 40181)
Hồ Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang vào đời Hậu Hán thời Ngũ Đại (947 – 950) sang làm Thái thú lộ Diễn Châu (Nghệ An). Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột thuộc lộ này, làm trại chủ đến đời thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại tỉnh Thanh Hóa, làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình.
10 Tháng Mười 20141:45 SA(Xem: 43859)
Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia” . Sự tranh luận này có chiều hướng phủ nhận quan điểm cũ của các tiền bối cũng như những người tin theo họ để bảo vệ cho cách đọc “cái đa đa”.
20 Tháng Chín 20145:29 SA(Xem: 31345)
Trong số 26 con đập dòng chính Sông Mekong, thì Noạ Trát Độ / Nuozhadu 5,850 MW trên Vân Nam là con đập lớn nhất, và Don Sahong 260 MW là con đập nhỏ và quan trọng nhất thuộc địa phận Nam Lào (không kể tới Thakho Diversion, cũng của Lào, 50 MW được bảo trở bởi CNR & EDL). Bài viết là một phân tích về hai thái cực của sự huỷ hoại: từ con đập lớn nhất tới con đập nhỏ nhất trên toàn hệ sinh thái Sông Mekong.