“Ai cầm gươm sẽ chết vì gươm, ai cầm bút sẽ chết vì
bút. Tôi viết kinh sẽ chết vì kinh”. Đặng Thơ Thơ đã viết như vậy trong truyện
ngắn “ Đi tìm bản kinh thánh cuối” như một
trải nghiệm cần thiết của nhân loại và dân tộc mình.
Đặng Thơ Thơ bắt đầu viết năm 20 tuổi khi còn ở
Việt Nam, theo tác giả những truyện này chịu ảnh hưởng Văn học Miền Nam, qua
các tạp chí Văn, Bách Khoa, Tự Lực Văn Đoàn… Năm 1992, gia đình cô được bảo
lãnh sang Mỹ. Tác phẩm đầu tiên cô gửi đăng là truyện ngắn “Mùa xuân xám” in
trên tạp chí Văn học do nhà văn Nguyễn Mộng Giác giới thiệu năm 1995. Truyện
ngắn này, Đặng Thơ Thơ đổi lại thành “Mùa xuân trắng” khi in trong tập “Phòng
triễn lãm mùa Đông”. Từ đó đến nay, Đặng Thơ Thơ đã đi vào nhiều thể loại, từ
truyện ngắn, tiểu thuyết đến phê bình, dịch thuật, nhiếp ảnh, phỏng vấn...
Tác phẩm của cô xuất bản không nhiều, nhưng được
chọn lọc kỹ càng, thường xuất hiện trên tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ
21, Gió Văn, Chủ Đề.
Các tác phẩm đã in: Phòng Triển Lãm Mùa Đông, tuyển tập truyện ngắn (Văn Mới 2002). Tác
phẩm mở: Khi Phong Linh Vỡ – truyện
dài.
Đặng Thơ Thơ là một tác giả nữ đặc biệt trong dòng Văn
học Việt Nam di dân, với một tâm hồn nhạy cảm luôn dằn xé trước thực tại và bản
thân, tác giả thường trực khủng hoảng nội tâm, mâu thuẫn với chính bản thân
mình, thích sống khép mình lui vào sự cô đơn, đọc tác phẩm của cô người đọc
luôn tìm thấy sự tự tra vấn này.
Một trong những ám ảnh thường trực trong tác phẩm
Đặng Thơ Thơ là sự “sống” và cái “chết”. Tác giả thường cho nhân vật tự hỏi: “Người ta có thể sống nhiều cuộc đời không?
Người ta có thể chết nhiều lần không? ... Mình có thể ngất đi, rồi tỉnh dậy hóa
ra người khác, đúng không? Nếu mỗi lần sống lại, mình biến ra một con người
khác, thì chuyện chết đi sống lại là tất nhiên. Đúng không? Nói chung, con
người vẫn từng chết đi sống lại mà không hay biết”.(1)
Và linh cảm về một cái chết trước mắt. “Mân hay ngồi đó viết thư cho một người nào
đó, báo tin thì đúng hơn, về cái chết của chính cô. “Mình sẽ tự tử vào một ngày
mùa thu”, cô viết cho một người bạn có tên bắt đầu bằng chữ S, “Mình không bình
tĩnh chút nào, mình rất hồi hộp, như sửa soạn đi chơi xa, mà có lẽ sẽ không về
nữa.”(1)
Có thời gian nhà văn bị trầm cảm và hội chứng OCD
(tâm thần thôi thúc ám ảnh), viết văn là một cách giúp tác giả thoát ra khỏi sự
cô đơn và khủng hoảng đó. Giống như Thanh Tâm Tuyền viết Tôi Không Còn Cô Độc nhưng đến chết hẳn tác giả vẫn còn cô độc. Nhà
thơ phải bám vào nỗi cô độc để thơ ông được tiếp tục viết và tiếp tục sống,
hoặc để vượt thoát chính ông. Đặng Thơ Thơ cũng vậy.
Có lần tôi hỏi Đặng Thơ Thơ có chịu ảnh hưởng nhà
văn nào không, cô cho biết ảnh hưởng nhiều bởi các tác giả như Borges, Virginia
Woolf, Murakami, Kundera, Kafka, các tác phẩm của cô thời gian sau này phảng
phất những xung đột nội tâm như vậy. Hiện nay Đặng Thơ Thơ thích đọc những tác
giả nữ và da màu như Sandra Cisneros, Gloria Anzaldúa, Yiyun Li, Shan Sa, Yoko
Ogawa, và Jeanette Winterson. Về tác giả Việt Nam, có 3 người viết mà phong cách
của họ gây ấn tượng mạnh cho nhà văn là Trần Vũ, Nguyễn Hương, và Nguyễn Thúy
Hằng.
Đặc biệt từ năm 2006, khi tham gia chủ trương trang
web Văn học nghệ thuật không biên giới
damau.org, Đặng Thơ Thơ sáng tác hàng loạt truyện cực ngắn, truyện chớp và nhận
định phê bình: Luân hồi đen; Nữ Quyền
Trốn Học; Người vợ Khổng Tử và cô giáo nữ quyền; Nữ Quyền Trốn Học / Feminism
Plays Hooky; Polonium 210(*); Chiến tranh trên cánh đồng hoa tu-líp; Điều xảy
ra sau khi Chúa chết; Hoa cúc trắng (đen) trên nền đen (trắng); Cấy Óc; Lối
thoát cho Ted Haggart; Tình Yêu trước ngày Tận Thế; Ở khoảng giữa một gang tay;
Lịch sử nhìn từ âm bản; Những vần thơ của Bác; Uncle’s Poetry; Buổi chiều ở
Prague; Cuộc chơi của dân da màu; Con yêu tinh thứ một trăm lẻ tám; Cung Tích
Biền nói chuyện với Đặng Thơ Thơ; Quà Giáng Sinh Ý Nghĩa Nhất?;Quà cho người
đàn bà lý tưởng; Tùy Bút của Thu Tứ; Những Bài Thơ Đến Trước Giấc Ngủ của vi
lãng; 30 tháng 4 và một ngày ở phía tương lai; Vô đề; Con yêu ai nhất; Tôi đọc
Thảo Trường; Hoàng Đạo – tiểu sử và sự nghiệp văn hóa; Lễ bế mạc một mùa hè; Đi
Tìm Bản Kinh Thánh Cuối.
Thời gian này, ngòi bút của cô trở nên sắc bén với
một cảm quan thẩm mỹ mới. Đặng Thơ Thơ là một tác giả nữ luôn tìm cách làm mới
mình qua nội dung và hình thức thể hiện. Hầu như mỗi tác phẩm là một thử nghiệm
bút pháp trong một tư tưởng mới lạ. Những đề tài cô quan tâm thường là những
vấn đề nhạy cảm mang tính thời sự xã hội, có ý thức dấn thân rõ nét. Hành trình
cô tìm kiếm là một hành trình mở chưa có hồi kết.
Đúng vậy, với Đặng Thơ Thơ quá trình sáng tạo là
một hành trình tìm kiếm, luôn luôn bất ngờ, luôn luôn thay đổi. Từ Mùa xuân Trắng đến Đi tìm bản kinh thánh cuối là một cuộc lột xác ngoạn mục.
Giai đoạn đầu nội dung trong tác phẩm của Đặng Thơ Thơ
thiên về những chủ đề nhẹ nhàng như tình bạn, gia đình, tình yêu đôi lứa, cái
đẹp trong nghệ thuật, văn mượt mà trong sáng, cảm xúc tuôn chảy như thơ. Trái
lại, giai đoạn sau những đề tài tác giả phản ánh lại mang tính gai góc như văn
chương nữ quyền, ẩn ức của những người đồng tính, lưỡng tính...hay các vấn đề
nhạy cảm mà người viết trong nước thường tránh né như đối diện quá khứ, lật lại
lịch sử. Giai đoạn này, văn phong thiên về tính chính luận, lý trí nhiều hơn,
tác giả chú trọng nhiều đến kỹ thuật sáng tác. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu thời kỳ này là truyện ngắn Đi tìm
bản kinh thánh cuối.
Lấy tư liệu từ Kinh Thánh làm chất xúc tác, Đặng Thơ Thơ đưa ra những luận đề: Vị trí và giá trị của người phụ nữ trong một xã hội giáo điều, mối tương quan giữa Niềm tin - Tri thức, Giáo điều - Tình yêu, và sự khả tín chính trị.
Nhân vật Tôi – một giáo sĩ chép kinh – thuộc phái Tín giáo, tượng trưng cho Tín điều. Nhân vật Mary Mađơlen – giáo chủ Tri giáo - tượng trưng cho lương tri, nàng cũng là người đàn bà duy nhất trong truyện – tượng trưng cho tình yêu.
Nội dung truyện xoay quanh nhân vật Tôi là một thầy tu dòng Tín giáo, có nhiệm vụ chép kinh thánh để lưu giữ, truyền cho hậu thế. Nhà văn Đặng Thơ Thơ dẫn người đọc vào một không gian hư cấu huyền ảo, không hiện thực huyền ảo mà thuần túy biến ảo của những truyền thuyết trong Tân Ước. Không gian và thời gian trong tác phẩm mở rộng vô giới hạn làm người đọc có cảm tưởng đang bay lượn ngoài vũ trụ nhìn về trái đất xem quá trình phát triển của nhân loại đang luân chuyển phía dưới. Tất cả mập mờ cùng lúc minh bạch, tất cả thâm u vừa chập chờn phân vân trong những gào la dằn xé của lý trí buộc im lặng...
Phụ nữ
Trong tôn giáo xưa Đàn bà là hiện thân của tội lỗi, tôn giáo phụ hệ xem thường người
đàn bà, chỉ nhìn thấy nhục thể trên thân xác họ, không xem phụ nữ có khả năng
sở hữu trí tuệ. Đây chính là điều mà Đặng Thơ Thơ đả phá, vì vậy trong “Đi tìm
bản kinh thánh cuối” tác giả cho Mary có một chiếc đầu, biết suy nghĩ, biết
chống đối và biết giữ sự độc lập cho thân xác mình. Mary không chỉ có nhục thể mà còn có cái đầu, có trí tuệ
là thông điệp của nhà văn.
“Mary Mađơlen
là người đàn bà có mình mà không đầu, hoặc có đầu mà không mình, và người đời
sau chỉ biết một trong hai thứ. Thoạt tiên tôi chỉ biết cái đầu Mary. Cái đầu
này chứa những khải thị huyền nhiệm và cả bản đồ chỉ dẫn đường đi của linh hồn.
Cái đầu này thông minh xuất chúng và người ta bảo nó đã thu hết mọi lời Giêsu
nói. Vì sợ nó gây thêm tổn thương cho niềm tin của chúng tôi, Giáo Chủ đã dùng
thanh gươm vô hình lia ngang cổ, chặt phăng cái đầu đi. Từ đó truyền thuyết
Mary người đàn bà không đầu đã biến Tri giáo thành một giáo phái huyền bí và ma
quái. Nhưng thanh gươm của Giáo Chủ chỉ có thể cắt lìa mà không thể hủy hoại,
cũng không thể khiến những thứ bị cắt lìa biến mất vào hư vô. Những thứ này vẫn
tồn tại, nhưng trong một thể khác, trôi chảy lung linh hơn và dịch chuyển quỷ
mị hơn. Nguyên tắc chung của những bí mật là tính hữu hạn của chúng: theo một
lời nguyền của dòng Tri Giáo, thời gian lâu nhất để giữ một bí mật không thể
quá hai ngàn năm. Sau thời hạn đó những bí mật bị chôn dấu sẽ trồi lên và làm
thế giới ngỡ ngàng. Cái đầu của Mary chẳng hạn, nó vẫn lơ lửng giữa những cuộn
kinh dài như tờ sớ.”.
Nhà văn Đặng Thơ Thơ đã cho Mary làm giáo chủ giáo
phái Tri giáo dùng linh giác và
lương tri để cứu rỗi, không ép buộc đức tin như bên giáo phái Tín giáo. “Sự đối nghịch giữa hai bên như mặt trăng với mặt trời về con đường dẫn
đến cứu rỗi. Giáo chủ nói bên Tri Giáo đặt nặng kiến thức và coi nhẹ niềm tin.
Ngài lên án Tri Giáo là ngạo mạn khi quan niệm con người có thể tự thông công
với Chúa không cần thông qua giáo hội.”
Ở đây, hệ thống giáo hội đại diện cho các thiết chế
xã hội, tôn giáo được tạo nên bởi quyền lực của người đàn ông. Qua hàng ngàn
năm “quyền lực của người đàn ông” được thừa nhận như một niềm tin có giá trị
truyền thống lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, điều đó mặc nhiên cầm
tù người phụ nữ trong hệ thống niềm tin ấy. Suốt chiều dài lịch sử nhân loại, trong
các lĩnh vực xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa, nữ giới luôn bị nam giới lấn
át và tước đoạt quyền hạn. (Trong quá khứ phụ nữ ít khi được phép đến trường,
ngày nay hãy còn tồn tại nhiều làng Hồi giáo tại các quốc gia như Yemen ngăn
cấm phụ nữ đi học, ra đường phải che mặt và không được bước chân vào đền thờ mà
phải đứng ngoài. Bên Công giáo, phụ nữ không được thụ phong linh mục và bên
Phật giáo không làm Thượng tọa). Thời Cổ đại và Trung đại người nữ còn là vật
dùng để tế thần như một cống vật. Người nữ không bao giờ được đối xử
ngang bằng với đàn ông.
Văn chương tranh đấu cho nữ quyền là một trong
những đề tài quan trọng đã được Đặng Thơ Thơ đề cập đến nhiều trong quá trình
sáng tác của cô. Trong “Người vợ Khổng Tử và cô giáo nữ quyền” tác giả viết: “Đằng sau mỗi vĩ nhân là một người đàn bà vĩ
đại. Tôi rất thích viết về đàn bà vĩ đại. Nhưng vợ Khổng Tử có thật vĩ đại
không? Chẳng ai biết gì về người vợ của ông. Nàng tên gì? Dung nhan nàng ra
sao? Tài năng nàng thế nào? Nàng đã thành đạt gì trong cuộc sống, ngoại trừ
việc cho ông mấy người con, trong đó có con trai nối dòng họ Khổng? Nàng có
biết nói, biết khóc, biết cười không? Nàng có biết đọc, biết viết, biết làm thơ
không? Chẳng sách vở nào nói đến nàng. Chẳng ai vẽ chân dung nàng. Làm sao vẽ
chân dung một người không có chân dung? Tìm trong tiểu sử của Khổng Tử cũng
không có tên nàng. Nàng là người đàn bà vĩ đại không tiểu sử.”
Khắc họa
cách nào khi sự hiện hữu của nhân vật hầu như không được chứng giám?
Và nhà văn Đặng Thơ Thơ đi tìm vợ Khổng Tử trên trang sách Kinh lễ.
“Tôi
tìm thấy những mảnh quần áo đông phương bị xé rách khi đọc kinh. Những trang
kinh sắp trở về với hư vô, hơn hai ngàn năm đã trôi qua trên đó, nhưng Khổng Tử
vẫn nhồi nhét thêm những người đàn bà mới vào sách của ông. Ông là vĩ nhân, có
tài biến đàn bà thành chữ, thành nét, thành tư tưởng, thành tinh chất. Ông đã
hiểu ý nghĩa của cuộc đời là chắt lọc thân xác đổi lấy tiếng thơm. Như người ta
ép tinh dầu. Bông hoa và mùi hương không thuộc về nhau. Bông hoa không được sở
hữu mùi hương của nó. Hãy để ý đến động tác của họ, rất ngoạn mục: Họ cởi đồ
chầm chậm, mỗi hành động buông áo, hạ quần, rút giây lưng kéo dài hàng thế kỷ.
Họ ngần ngại và bị lôi cuốn, đến thiên niên kỷ thứ 3 mới bạo dạn dám khoe chút
rốn. Ngôn ngữ của họ cũng lơ lửng; một chữ buông hờ ở cửa miệng rồi cứ đọng lại
ở đó, một câu nói chưa thành tiếng đã bị mất hút vào không gian. Một ý nghĩ mất
cả đời để thành hình. Một câu nói truyền từ người này sang người kia mất thêm
vài trăm năm nữa. Chỉ có nước mắt của họ là vẫn vậy, xưa cũng như nay, những
giọt lệ chảy nhanh, lăn tròn, đều đặn. Vận tốc của nước mắt là hằng số. Đêm đêm
họ ngồi khóc bên những ngọn đèn lồng đỏ thắp lập lòe trên ruộng cao lương.”
(2)
Nước mắt của người nữ là “Lệ đá” (3), dòng nước
thổn thức bật ra từ lòng núi câm lặng mấy ngàn năm.
Đặng Thơ Thơ kết luận:
“Ký ức lịch
sử Đông Phương không có chỗ cho một thân phận nữ đơn lẻ. Vì vậy Khổng Phu Nhân,
người phụ nữ vĩ đại này đã tan biến vào tập thể và tồn tại như hương hoa để ướp
thơm những trang kinh của chồng là đức Khổng”. (2)
Ngàn đời
nay từ Tây sang Đông, từ Mary Mađơlen người yêu của Jesus đến vợ Đức Khổng
PhuTử, phụ nữ luôn bị xem là chiếc bóng bên cạnh các vĩ nhân.
Đi tìm bản
kinh thánh cuối cũng là con đường đi tìm sự giải phóng thật sự cho phụ nữ.
Giáo điều và
Tình yêu.
Mary Mađơlen được nhắc đến trong tác phẩm như biểu
tượng của nhục thể, tượng trưng cho tình yêu, nàng quyến rũ với “mái tóc từng lọn loăn quăn màu hạt dẻ phủ
quanh cần cổ dài, làn da trắng ngà như sữa cừu, tia nhìn thống thiết và ngời
sáng, một pha trộn giữa hy vọng và vô vọng. Và giọng nói của nàng, đau đớn rỉ
rả cất lên từ trang sách”… “Nàng mảnh
khảnh thanh tao như Donatello đã vẽ. Nàng đầy đặn vun tròn như người mẫu của
Titian. Nàng hiện thân thành người đàn bà tội lỗi, cánh tay chắc nịch ... bầu
vú nàng căng mọng, căng đến nỗi chỉ cần bấu nhẹ thì sữa nhục cảm sẽ ứa ra tràn
trề”.(4)
Giáo điều trong kinh thánh cấm các giáo sĩ gần đàn
bà vì cho đó là tội lỗi. Bản thân Giáo chủ ngoài mặt thì rao giảng thông điệp “Mary Mađơlen là người đàn bà xõa tóc lẳng
lơ, đã lấy dầu sáp thơm thoa mình, đã để xác thịt phạm điều cấm kỵ” nhưng
bản thân ông và các tăng lữ vẫn không thể thoát khỏi bản ngã nhục thể của chính
mình, vì: “ Bên dưới lớp áo dòng những
dương vật chợt cương cứng nhức nhối. Bài giảng ấy là một thử thách và một rủa
xả, nó bắt chúng tôi sinh lòng thèm khát. Ngay giữa giáo đường chúng tôi chứng
kiến một cảnh thoát y quái gở khi Mary thay áo đổi vai từ một tông đồ sang một
gái giang hồ. Tối hôm đó nàng tìm đến giường chúng tôi, khỏa thân và tràn trề xác
thịt. Chúng tôi đầu hàng và tận hưởng nhục cảm nàng đem đến. Những nhục cảm
không phải trả bằng tiền. Những nhục cảm trả bằng một thứ gì khác hơn, pha trộn
sự biết ơn thống hối và cả nỗi buồn đắm đuối. Mỗi người trả bằng cái giá mà họ
có. Ai có linh hồn thì sẽ trả linh hồn. Ai có quyền lực thì trả bằng quyền lực”,
họ hiểu rằng đối với người đàn ông một trong những bản án chung thân, là lời
thề đến chết không được gần phụ nữ. “Ban
ngày tôi đọc và biên tập kinh, ban đêm linh hồn tôi lẻn xuống quảng trường gặp
Mary... Vườn đá nằm khuất giữa những triền ô-liu bao quanh thung lũng... Mary
nằm xoải, ánh trăng chiếu qua tàng cây cằn cỗi rọi hình những chiếc lá nhọn
hoắt lên thân thể nàng như những vết khâu. Tôi ngậm mút những trái ô-liu chín
thẫm trên bầu vú nàng. Rồi chúng tôi làm tình trên tảng đá lộ thiên trơn nhẵn.
Nơi đây tôi không gặp cơn ác mộng bị cắt phăng dương vật; nhưng sẽ luôn có một
tai họa khác rình rập để trừng phạt tôi về tội tà dâm... Tôi ôm riết Mary, tôi
khao khát truyền sự sống vào nàng” (4)
Cuối cùng, mọi giáo điều, đạo đức khô cứng đều quỵ ngã trước tình yêu. Sự xung đột nội tâm của các tăng lữ còn mở ra một chiều
kích lớn. Đó chính là sự đấu tranh dám vượt lên chính mình của loài người, dám
phá bỏ mọi niềm tin, lý tưởng giáo điều để sống thật với chính bản năng bình
thường của con người. Thứ bản năng bình thường mà không tầm thường, vì chính là
tình yêu, cội rễ của sự sống.
Chính mối tương quan giữa giáo điều và lương tri
bên cạnh tình yêu sẽ quy định văn
hóa sống của mỗi con người, bản chất của một thể chế xã hội, rơi vào tín ngưỡng
hay vươn lên bằng lý trí... Các nền văn minh đều phải vượt qua thử thách này.
Niềm tin
và Tri thức.
Câu chuyện xoay quanh thầy tu dòng Tín giáo xuất thân từ chủng viện lâu
đời nhất thế giới, ông được Giáo chủ Tín giáo giao nhiệm vụ chép mấy nghìn cuốn
kinh để lưu truyền hậu thế – đó là những bản kinh nguyên thủy xưa nhất mà loài
người còn nhớ, viết trên giấy cói. Đầu tiên thầy tu chép kinh vì đức tin: “Tôi khấn nguyện ở đây trọn đời vì lòng kính
mộ ngôi giáo đường này, vì nó là nguồn gốc của tôi, như thể thân xác tôi bắt
nguồn từ đá, từ chất đồng của chuông, từ tiếng cầu kinh và tiếng đàn phong cầm
cộng hưởng. Tôi cũng quyết định ở đây trọn đời vì Giáo Chủ. Ngài là biểu tượng
của niềm tin, của sự thật, của trần thế, của thiên đàng. Uy quyền ngài không
phải chỉ trong thời này, mà còn kéo dài những thế kỷ tới.”
Thầy tu chép kinh phát lời thề nguyện bảo vệ niềm
tin của dòng Tín giáo bằng mọi giá.
Thế nhưng, trong quá trình chép kinh, giáo sĩ nhận ra sự thật trong các cuốn
kinh lưu trữ Không- Duy-Nhất. Không chắc
chắn đấy là lời răn thật của chúa. Lương tri thôi thúc, bắt ông phải
phản tỉnh, đức tin vào dòng Tín giáo lung
lay, thầy tu bị dằn vặt: phải chép kinh theo sự chỉ đạo của
Giáo chủ để phù hợp với quan điểm của Giáo hội hay chép kinh theo
đúng sự thật của lời Chúa. Bắt đầu từ
đây một sự đấu tranh gay gắt trong nhận thức của thầy tu giữa đức tin và lương thức con người: “Thời
gian soạn bộ kinh thánh là thời gian căng thẳng trong quan hệ giữa Giáo Chủ và
tôi, vì cách chúng tôi quan niệm kinh thánh thật khác nhau. Khởi ngay từ định
nghĩa “kinh thánh” chúng tôi đã không nghĩ giống nhau rồi. Giáo Chủ bảo kinh
thánh là lời Chúa, vì Chúa đã phán như thế. Những vị thánh ghi lại những gì
Chúa nói, những gì Chúa làm. Tôi nói với ngài, các vị thánh cũng có thể ghi lại
những điều họ tưởng là họ nghe, họ nghĩ là họ thấy. Cũng có thể những điều họ
ghi chép là có thật, nhưng còn rất nhiều sự thật khác mà họ không thấy hoặc
không nghe. Ngay tên gọi kinh thánh đã là một điều khó hiểu, vì nó không chỉ là
một cuốn kinh, nó còn mang chất “thánh”, và từ “thánh” là điều khiến tôi suy
nghĩ. Tại sao “thánh”? Chỉ vì chúng được viết ra bởi những vị thánh? Ai là
thánh? Các thánh Phaolô, thánh Luca, thánh Gioan khi ngồi viết kinh vẫn chưa phải
là thánh. Họ chỉ là thánh sau này, khi họ đã chết…”.
Hàng ngày lựa chọn các chương thi thiên để chép
Giáo sĩ nhận ra còn có những con đường mới, những con đường khác so với niềm
tin mà Giáo hội truyền dạy: “Thời ấy có
rất nhiều kinh sách của Tri giáo, giáo phái đối nghịch với Tín Giáo chúng tôi,
lưu trữ trong thư viện do tôi quản thủ. Giáo phái này do Mary Mađơlen thành
lập, tuy cũng bắt nguồn từ khải thị của Giêsu, nhưng lại rẽ ra một hướng khác
hẳn. Họ đi một con đường khác dẫn đến cứu rỗi, họ dùng linh giác và lương tri
của họ, họ không dùng lòng tin của chúng tôi… Điều này khiến Giáo chủ không
vui. Giáo chủ nói bên Tri Giáo đặt nặng kiến thức và coi nhẹ niềm tin. Ngài lên
án họ là ngạo mạn khi quan niệm con
người có thể tự thông công với Chúa không cần thông qua giáo hội”.
Việc đọc những cuốn kinh Tri giáo làm cho quá trình nhận thức của giáo sĩ từ từ
thay đổi, ông hồ nghi chính mình vì niềm tin của ông đổi khác. Những cuốn kinh
mà Giáo chủ cấm ông chép lại là những cuốn kinh giúp ông khai ngộ, mở ra những
con đường mới. Thầy tu bị giằng xé giữa lời thề và
lương thức của mình, ông quyết định tự
tìm một cuốn Kinh riêng: “Tôi cũng có một
cuốn kinh của riêng tôi. Cuốn kinh phát xuất từ chính tôi, từ suy tưởng và
chiêm nghiệm của tôi, một phần là chuyện của tôi với Giáo Chủ. Nếu mai này tôi
chết đi, và tôi được phong thánh, thì cuốn kinh tôi viết kể là kinh thánh…Ở
trang đầu tiên tôi đã viết như sau: “Ai cầm gươm sẽ chết vì gươm, ai cầm bút sẽ
chết vì bút. Tôi viết kinh sẽ chết vì kinh.”
Cuối cùng, lương tri chiến thắng. Thầy tu đã chọn viết theo suy nghĩ của riêng mình không viết theo sự chỉ đạo của Giáo chủ, mặc dù ông biết viết trái với Giáo hội sẽ dẫn đến cái chết: “Nhưng tôi không thể trừ loại niềm tin và lương giác của mình. Nếu chúng ta có những định nghĩa khác nhau về niềm tin, thì mẫu số chung của niềm tin là gì? Chẳng lẽ không thể có mẫu số chung mà chỉ có hiệu số của một bài toán trừ bất tận, niềm tin này trừ khử niềm tin kia? Niềm tin nào giá trị hơn niềm tin nào? Niềm tin thắng thế của kẻ mạnh chăng? Đây là điều dễ hiểu. Đức Giáo Chủ là người mạnh vì cái nhìn của ngài thấu suốt tương lai thêm nhiều ngàn năm nữa. Còn cái nhìn của tôi bị giới hạn trong căn gác này, giữa những cuốn kinh đầy bụi và những tiếng nói tắc nghẹn của quá khứ. Tiếng nói của những cái đầu bị chặt”.
Hành trình tìm kiếm chân lý
Giáo chủ muốn tiêu diệt Tri giáo nên ra lệnh thiêu hủy toàn bộ Kinh sách của Tri giáo, thầy tu quyết định hàng đêm ngồi dịch tất cả những cuốn Kinh Tri giáo sang một ngôn ngữ khác để cất dấu: “Những ngày sau đó tôi thức trắng đêm để dịch kinh. Tôi dịch tất cả những cuốn kinh Tri giáo mà Giáo Chủ chắc chắn sẽ đốt đi. Đức Giáo Chủ giỏi tiếng La-tinh, tiếng Do Thái và tiếng Hy-lạp nhưng cũng may ngài không biết tiếng Ả-rập và tiếng Ai Cập cổ xưa mà vùng này ít người thông thạo.Tôi chuyển linh hồn Mary sang một thân xác mới. Một thân xác có đủ đầu lẫn mình. Thân xác này sẽ nằm ẩn trong kinh, giữa những ký tự vòng vèo mà Giáo Chủ sẽ tưởng là sách dạy về bùa chú. Tôi vừa dịch kinh dưới ánh nến vừa nghĩ tới tháp Babel của Đức Chúa Trời, tới những mâu thuẫn gay gắt giữa màu da và chủng tộc. Tôi nghĩ đến sự diệu kỳ của ngôn ngữ. Những tiếng nói đa chủng tưởng như một trừng phạt, nhưng trở thành nơi lánh nạn của niềm tin. Chúa đã tạo ra Babel và tạo ra tôi, để làm điều Chúa muốn”...
“Mỗi tuần một lần Đức Giáo Chủ trèo lên đỉnh gác chuông, đưa thêm sách, dặn tôi chọn đoạn kinh này, bỏ cuốn kinh kia. Ngài vẫn kiểm tra những gì tôi viết. Tôi vẫn bị giằng xé giữa lời thề và lương thức của mình. Ngài không biết những gì tôi viết ra sẽ dẫn đến cái chết của tôi. Còn tôi thì đã chấp nhận viết cho đến chết dẫu đó là một số phận bi thảm không ai muốn.”
Người đọc cũng có thể hiểu, Giáo
chủ ở đây tượng trưng cho uy quyền, cho một thể chế. Trong lịch sử nhân loại
không bao giờ có một thể chế nào trường tồn mãi mãi. Cho dù các nhà cầm quyền
luôn mong muốn kéo dài thời đại trị vì, luôn ra lệnh cho các sử gia ghi chép
lịch sử theo ý người chiến thắng. Nhưng với thời gian lịch sử cũng được phơi
bày ra ánh sáng với đúng sự thật vốn có của nó.
Trong thế giới ngày nay, không
thể có một niềm tin nào là tuyệt đối, tất cả mọi việc đều có tính tương đối.
Không thể lấy một niềm tin này để triệt tiêu một niềm tin khác, và làm sao biết
niềm tin nào hơn niềm tin nào. Quy luật cuộc sống là một sự hài hòa. Cuộc sống
con người cũng vậy, chúng ta sống không thể không có niềm tin nhưng cũng không
thể không có nhận thức của lương tri. Tuyệt đối hóa một chiều, đều dẫn đến nguy
hiểm. Vì vậy Niềm Tin và Lương Tri cả hai phải song hành cùng nhau. Không vô
tình mà Đặng Thơ Thơ đặt tên hai giáo phái Tín
giáo và Tri giáo.
Quá trình chép kinh cũng là quá trình phát triển nhận thức của con người, khi nhận ra sai lầm con người sẵn sàng phá bỏ để xây dựng con đường mới. Cuộc sống là một quá trình luôn luôn phát triển, thay đổi không ngừng. Vì vậy, không bao giờ có một chân lý nào tuyệt đối, không có một chân lý nào là mãi mãi. Cuối cùng một niềm tin tuyệt đối được thay thế bằng một sự phản bội tuyệt đối.
Kết luận của tác giả ở cuối
truyện: Hành trình đi tìm chân lý của mỗi dân tộc là phải đi ngược lại lịch sử
của dân tộc đó cho đến ngọn nguồn, bằng cách tự xoay lưng đi ngược. Không chân
lý nếu không xét lại và không thể trốn tránh nếu muốn tìm ra sự thật.
Thông điệp truyện cho chúng ta một chiều kích rộng,
con đường phải đi của mỗi dân tộc là phải biết xoay lưng với lịch sử chính
thống ngụy biện để tìm ra lịch sử thật của dân tộc mình. Đây là một trong những
thông điệp chính của truyện. Một tác phẩm xuất sắc phải mang trong mình một nội
dung tầm cỡ, Đi tìm bản kinh thánh cuối
là một trong ít những tác phẩm đó.
Trong một lần trao đổi, tôi hỏi
Đặng Thơ Thơ: “ Quan niệm nghệ thuật của Thơ Thơ là gì?”, cô trả lời không do
dự: “Nghệ thuật có thể không mục đích từ
cương vị người nghệ sĩ, nhưng tác động của nghệ thuật đúng nghĩa sẽ làm thay
đổi hoặc nâng cao thẩm mỹ, cách nhìn, chiều kích, và tính nhân bản trong mỗi
chúng ta”.
Đọc “Đi tìm bản kinh thánh cuối” ta bắt gặp thời
gian luôn biến chuyển co giãn với một biên độ rộng: quá khứ - hiện tại – tương
lai song hành cùng nhau. Các khái niệm, ý tưởng, hình tượng ẩn dụ hòa trộn
nhuần nhuyễn tạo nên một cấu trúc đa tầng, làm phái sinh nhiều nghĩa qua cái
nhìn đa chiều của người đọc. Cách viết này, làm cho không khí truyện luôn xáo
trộn, biến ảo kéo theo cảm xúc của bạn đọc cũng luôn biến chuyển. “Đi tìm bản
kinh thánh cuối” là một truyện kén bạn đọc, quá trình đọc cũng là quá trình
khám phá, từng người đọc sẽ tự tạo cho mình một văn bản mới, bạn đọc
cùng tham dự quá trình sáng tạo với nhà văn.
Hành trình đi tìm cái mới trong
sáng tạo cũng là hành trình tìm kiếm bản kinh thánh cuối của tác giả, nhưng làm
sao ta biết bản kinh thánh nào là bản kinh cuối, cũng như sáng tạo cái đẹp
không bao giờ dừng, nó luôn biến chuyển, luôn thay đổi, đó chính là lời kêu gọi
của Đặng Thơ Thơ.
BAN MAI
06.10.2013
----------------------------------------------------
(1) Hoa Cúc trắng
trên nền đen
(2)
Người vợ Khổng Tử và cô giáo nữ quyền
(3) Thơ Thanh Tâm Tuyền
(4)
Đi tìm bản kinh thánh cuối