- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THƠ THẾ SỰ TRONG MỐI, MỌT, GIÁN, CHUỘT, BÓNG TỐI…

13 Tháng Chín 20221:26 CH(Xem: 7477)

THACH QUY

 


Mai An Nguyễn Anh Tuấn     

THƠ THẾ SỰ TRONG MỐI, MỌT, GIÁN, CHUỘT, BÓNG TỐI…     

 

Tôi biết đến tên tuổi nhà thơ Thạch Quỳ từ hồi sinh viên văn khoa, từng đọc thơ ông, nhưng lần đầu tiên mới được gặp ông tại một đám đông hội hè, giữa khu lưu niệm Nguyễn Du - Nghi Xuân, Hà Tĩnh đầu năm 2019. Đó là một ông già gầy gò, người quắt lại như lõi lim, đôi mắt sáng có vẻ hơi chế diễu nhưng không mất đi sự nhân hậu đằm thắm…

Qua sự giới thiệu của một nhà Kiều học là người Nghệ An, ông trịnh trọng bắt tay tôi, và tặng cho tập thơ mới nhất của ông. Công việc lu bu mãi, cho đến những ngày mưa dầm tháng bảy này, tôi mới giở tập “Người lặn biển” ra đọc, với lòng Thương - Kính sẵn có đối với những “Ông đồ xứ Nghệ” là các thầy cũ của tôi, các bậc đàn anh trong giới chữ nghĩa mà tôi quý mến, và các bạn tôi… Không hiểu sao, sau khi lật giở vài trang, bài đầu tiên đập vào mắt tôi lại là bài: Mối, mọt, gián, chuột, bóng tối…

Và không hiểu sao nữa, những liệt kê của lão thi sĩ về các vật dụng trong ngôi nhà “như nấm mộ” đó lại khiến tôi phải chăm chú chép lại, như bị thôi miên, không thiếu vật gì:

“Mối, mọt, bóng tối, chuột, gián, sách cũ, bàn gỗ, ghế gỗ, chai thủy tinh, bình gốm, lọ sứ, cuội, đá, hoa khô, mẫu hóa thạch, tranh cổ, bùa, chú, xương, răng, vua, quan, hình nộm và các loài bò sát đất nung từ thời tiền sử”.

Tôi chợt nhớ đến nơi ở trống trải của Đại thi hào Nguyễn Du một thời, mà nổi bật nhất chỉ là “cạnh gối có chồng sách vở đỡ tấm thân bệnh tật” (Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt. Tạp ngâm 2). Còn những đồ vật trong ngôi nhà Thạch Quỳ tuy có phong phú hơn về chủng loại, song chỉ là những thứ đồ sưu tầm nhặt nhạnh của một trí thức nghèo thời hiện đại chẳng đáng giá là bao vẫn làm bạn với mối, mọt, chuột, gián, bụi… Và sự “liệt kê” này khiến tôi liên tưởng tới căn nhà dơ dáy với các đồ vật nghèo nàn do thi sĩ Áo R. Rilke từng kể trong tuổi thơ chật vật, mà triết gia M. Heidegger có trích dẫn lại để tìm đến cái “căn nguyên” (original) sự tồn-tại-trong-cõi-sống của một tác giả trước khi có sự xuất hiện văn chương của ông (1).

Sau sự “liệt kê” mang bóng dáng sự thực đó, là cuộc miêu tả sự sống hiện tại và quá khứ của bản thân bằng biểu tượng Tình yêu không thành qua một vở kịch không lời, một bộ phim câm đen trắng về một người đàn bà từ tuổi thanh xuân đến khi tóc bạc trắng đến gõ cửa “nấm mồ”, nhưng “suốt bốn mùa im lìm đóng cửa”, và người thơ có lúc tự tách mình ra để hỏi nhân vật trữ tình là chính mình:

“Ắng/ Lặng/ Như trong nấm mộ/ Còn thức/ Hay đã ngủ/ Còn sống hay đã chết/ Hỡi ông già/ Trong ngôi nhà/ Suốt bốn mùa im lìm đóng cửa?// Người đàn bà yêu ông/ Từ tuổi thanh xuân nàng đến đập cửa/ Tóc trắng trên đầu nàng đập cửa tìm ông/ Cửa vẫn đóng/ Cánh cửa của nấm mồ không mở!”

Lại thêm hai lần nữa tác giả lặp lại sự “liệt kê” đồ vật trót mang linh hồn của ông, và hé mở cái sự thật vì sao ông từ chối cái mối tình đến điên cuồng của người đàn bà:

“Mối mọt, mọt, bóng tối, chuột, gián bình gốm, lọ sứ, cuội, đá, hoa khô sách cũ/ Trong ngôi nhà/ Người đi tìm tự do/ Đã tìm cách tự tù!// Trước ngôi nhà/ cuội, đá, hoa khô, bùa, chú, xương, răng, vua, quan, bò sát đất nung, khủng long hóa thạch…/ Người đàn bà/ Mang khát vọng tình yêu/ Đập cửa đập cửa đập cửa…”

Nhưng: “Trong ngôi nhà/ Người đàn ông hóa đá”.

Có thể trong đời ông đã từ chối một tình yêu có thực nào đó, nhưng ở đây cần hiểu là ông đã từ chối những thú vui đầy cám dỗ của “đám đông”, để lầm lụi đi tìm Tự do đích thực trong nhiều năm ròng, và khi không tìm thấy, khi tuyệt vọng, “Đã tìm cách tự tù”… Bài thơ là một cách nói cực tả về thái độ “bất cộng đới thiên” của ông với lối sống thực dụng, phù phiếm, giả dối; một lối cự tuyệt kiểu nhà nho khí khái trước thói đời đi ngược lại quan điểm sống cố hữu của tác giả. Một cách hành xử muốn học theo Khuất Nguyên: “Cả thiên hạ đều say, chỉ mình ta tỉnh”. Một biểu hiện của người mang tâm sự thường trực: “Tôi cô đơn dưới đất/ Chúa cô độc trên trời/ Thiên đường càng cô độc/ Mơ làm gì chúa ơi! (Thơ 5 chữ). Một phản kháng của người có lúc tưởng mình phát điên: “Tuổi tác chồng lên, vui buồn dần cạn/ Có thể về với thiên nhiên tìm chút thảnh thơi?/ Chưa giải tỏa sau lưng, đám dây nhợ nợ nần đã hiện lên trước mắt/ Mây trắng bay mờ mịt cả chân trời!//Xương máu để làm chi hở bạn/ Nếu tự do hạnh phúc không về/ Một nghìn năm rồi trăm năm có lẻ/ Sông núi bàng hoàng hư thực máu xương kia!//Ta tỉnh thức hay ta ngây dại?/ Lặng im ta như bóng tối ngu hèn/ Tiếp tục nói cười, tiếp tục sống giữa mọi điều sai trái/ Ta chưa điên cũng thể quá người điên// Tuổi tác trên đầu ngày một chồng lên…” (Tuổi tác).

Cả khi ông sống trong ngôi nhà “Tự tù” kia hay đi khắp nơi, bao giờ ông cũng bộc lộ là một người yêu nước nồng nhiệt, người mang tinh thần Dân tộc thuần khiết: “Buồn vui muôn năm cũ/ Vẫn trước mắt đó mà” (Hoa ngoài cửa sổ). Khi ngắm nhìn “Những bông lau trên đỉnh Lão Sơn”, người thi sĩ đã quặn lòng: “Đất nước tôi nhành cây ngọn cỏ/ Cũng nghìn năm xương trắng máu hồng” (Lau biên giới)…

Nhưng, cũng bởi lòng yêu nước, lòng yêu dân tộc trở thành hòn đá thiêng trong tâm hồn ông, ông đã nhiều lần phải trĩu lòng đau đớn trước thế sự… Ông đi trên một con tàu, hết ga đầu lại về ga cuối, rồi tàu quay lại, ông tự hỏi: “Rằng ông già nghễnh ngãng/ Đi đâu/ Và/ Về đâu?...” (Ông già nghễnh ngãng). Và ông cũng “chờ đợi”, “một mình ngồi trên ghế đá mùa đông” (Bên tượng Puskin) giống như nhân vật của Samuel Beckett “Chờ đợi Godot”… Trong lúc “chờ đợi”, có lần ông đã chứng kiến cảnh này để liên hệ với cả một xã hội “giả vờ” im lặng khoanh tay trước cái ác, cái phi lý hoành hành: “Bọn trấn lột lên tàu/ Cả toa tàu im lặng/ Người giả vờ đọc sách/ Người giả vờ nhìn ra/ Người giả vờ cúi đầu/ Người giả vờ quay mặt/ Người giả vờ nhắm mắt/ Người giả vờ ngủ gật/ Tất cả đều giả vờ/ Chỉ trấn lột là thật” - trong lúc đó, “Con tàu vẫn băng lên/ Lầm lì đi trong đêm” (Toa tàu). Trong khi đi và chờ đợi, ông đã chứng kiến bao chuyện cười ra nước mắt, như cảnh: “Ngỡ như người chăn vịt thì sẽ nói về kỹ thuật chăn vịt/ Nhưng họ vẫn thao thao bất tuyệt/ Về các địa tầng, thủy tầng trong đáy các đại dương…” (Người lặn biển); đã mục sở thị bao chuyện đau xót đáng phẫn nộ, như chuyện: “Cuộc thí nghiệm kéo dài non thế kỷ/ Kéo thêm kỷ nữa, chắc gì đã xong/ Họ hàng nhà chuột bạch/ Tiếp tục bị cấy ghép, bị tiêm chích, bị mổ xẻ, bị nhiễm khuẩn, bị nhiễm trùng, nhiễm thuốc độc/ Con mù mắt, con suy tim, con loạn thần, con lăn cù cù, con xoay lòng vòng, con co giật/ Thương thay loài chuột bạch/ Không biết nói như người/ Để có thể kêu lên!” (Chuột bạch), như chuyện: “Tự úp lên đầu chiếc mũ/ Hình bán cầu/ Gói gọn thế giới trong tầm mắt/ Nhìn xa từ 4 đến 10 cây số!” (Từ 4 đến 10 cây số), như chuyện về những anh chàng “sáng bóng com-lê, cà-vạt” nhưng thực ra chỉ “Là cái loa để phát/ Những mệnh đề di ngôn/ Những lời nói gói sẵn” khi “đang quay mặt trước sự thật” và “Thum thủm bốc mùi” (Mùi cổ lỗ), và đau đớn nhục nhã nhất là cái “Trật tự tủ lạnh” đang được thực thi, còn “Dưới tín hiệu dùi cui, tất cả lộn tùng phèo/ Có phải ta đã trọn đời phục vụ chân lý?/ Tên sen đầm hất hàm hỏi tiếp/- Vâng, thưa ngài, Chân Lý Dùi Cui!” (Chân lý dùi cui)…

Những bài thơ ngắn của ông vừa mang bóng dáng ưu thời mẫn thế của các thi sĩ-nho gia thời Trung - Cận đại, vừa chất chứa bao niềm suy tư trăn trở về thời cuộc, về lẽ sống, về lý tưởng của một Công dân trong thời đại mới: “Đôi khi buồn chẳng biết làm chi/ Ngồi lặng lẽ nhìn mưa ngoài cửa sổ/ Bụi mưa ướt mờ nhoè khung kính cửa/ Lá ngô đồng rỏ nước khóc ngày đi…” - “Những lý thuyết đạo đức chưa bị nghi ngờ/ Những tư tưởng vì sao tư tưởng đó?/ Có chén rượu, ta e dè ngọn gió/ Biết gió lành, gió độc thổi về đâu…” - “Chúi mũi, dụi đầu vào cát/ Thuyền như con bọ chết trương nằm/ Biển dọc miền Trung đầy cá chết/ Dặm dài không một bóng ngư dân…” - “Buồn vui theo lịch xé rồi/ Khóc cười thì đã khóc cười từ lâu/ Như người lạc giữa sông Ngâu/ Vô tâm sợ viết thành câu vô tình/ Nghêu ngao mình nhại thơ mình/ Vẫn e có kẻ đang rình trộm nghe!...” - “ “Cái gọi là Chân lý khách quan/ Đã biến thành Ông quan chân lý” - “Tôi chiến đấu không bao giờ chiến thắng/ Với nỗi buồn lẩn quất trong tôi/ Nhưng nỗi buồn/ Là thù hay bạn? Tôi hỏi tôi/ Tôi không dễ trả lời!” (Những bài thơ ngắn) - “Khi con chó bỏ đi/ Nồi cám đã trống rỗng// Ấy là lúc vịt gà ngan, ngỗng/ Cất tiếng reo mừng khúc hát tự do// Khi chúng có tự do// Cám trong nồi đã hết!” (Tự do) - “Đêm đen đến vô vọng/ Ngày trắng đến vô cùng// Tiếp tục sự vô ích/ Lại viết thêm mấy dòng… (Nhật ký 15/7/2018).

Nhưng đằng sau những nỗi chua chát có không ít âm hưởng bi quan, đau đớn, ta vẫn thấy nụ cười hóm hỉnh và niềm tin yêu cuộc sống & con người của tác giả, nhất là những thông điệp âm thầm mà gay gắt về Đạo lý của một người thơ “Không lá, không hoa, cây còn cái lõi/ Thơ lõi lim - Tặng phẩm lúc lim già…”

Thơ ông là thơ của một tác giả đến giai đoạn cao nhất của sáng tạo thi ca là “trực ngôn”, rút tinh túy lòng mình ra để cắm sâu vào tâm trí người đọc - không phải bằng những câu chữ ngọt ngào làm duyên làm dáng, bằng vần điệu du dương; sự thật là ông đã không để lọt vào thơ mình một câu chữ nào của các “hoạn quan trữ tình” (Maiacovski) đang đầy rẫy trong thơ ca Việt hiện đại…

Bài thơ hay nhất trong tập “Người lặn biển”, theo tôi là bài thơ “Đói”, mang đậm “chất Thạch Quỳ” - bài thơ còn mang tính thời sự lâu dài, và nói hộ được nỗi niềm của nhiều người Việt Nam đã/ đang trải qua những sóng gió đời thường và lịch sử:

ĐÓI


Tớ nói thật, tớ có tài nhịn đói

Nhịn từ tuổi thiếu niên qua tuổi trung niên

Bát cơm trắng như giấc mơ cổ tích

Trong chiêm bao thường vẫn hiện lên

 

Tôi nhịn đói hơn sáu mươi năm có lẻ

Rồi quen đi, không đói nữa ngày nào

Cái cảm giác thèm ăn dần biến mất

Bát cơm trắng ngày nào cũng biến mất khỏi chiêm bao

 

Giờ nếu bạn mời tớ vào cuộc nhậu

Tớ nể tình ngồi lại, tớ không ăn

Xin bạn hãy cảm thông cho tớ

Cả một đời nhịn đói đã quen thân

 

Và cũng vậy, tự do, tình yêu…

                                              những gì nữa nhỉ

Với đời sống tinh thần tựa nước uống cơm ăn

Nhưng chẳng lẽ, như dạ dày của tớ

Trái tim người đói mãi cũng thành quen…?

Tôi xin thay mặt những người đọc nói chung, người yêu thơ nói riêng trước hết cảm ơn nhà xuất bản Nghệ An đã làm “bà đỡ” cho tập thơ giản dị, gai góc song đầy rung cảm này được ra đời, sau đó là cảm ơn thi sĩ “lão thực” Thạch Quỳ - một bông hoa quỳ bằng đá quý hiếm trên xứ Nghệ!

_______________________

1. Triết học nghệ thuật của Heidegger, Julian Young, Như Huy dịch, tr.82, Nxb Thế giới, HN, 2019.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười 20236:02 CH(Xem: 4774)
Sau mấy stt. của hắn trên MXH về chuyện vu cáo tồi tệ của vài vị “chức sắc” ở Hội Kiều học (Hội khoa học nghiên cứu Nguyễn Du & Truyện Kiều), cô con gái hắn - sinh viên năm thứ hai ĐH KHXH&NV vừa về tới nhà đã xộc tới bàn làm việc của hắn, với gương mặt đỏ bừng mà ngày thường vẫn lạnh như bà hoàng Băng giá, nó tức tối chất vấn, như hành hạ ông bố đã thất bại đủ thứ và đang khốn khổ đủ điều
16 Tháng Mười 20235:52 CH(Xem: 4568)
Tôi có duyên với chợ nên đi về cuối đường đời thì dấu ấn sâu đậm nhất trong tôi là cái chợ, nhớ nhất là cái thời còn buôn bán ở chợ nên đến bây giờ cả trong giấc ngủ tôi vẫn thường mơ thấy chợ, nơi ấy là nhà là kỷ niệm ăn sâu nhất không quên được.
16 Tháng Mười 20235:20 CH(Xem: 5028)
Nắng lạc lõng nắng tàn trên hè phố / Chiều bơ vơ chiều té xuống sông / Tôi im lặng tôi ngồi nghe sóng vỗ / Đời vô thường nên có cũng như không
16 Tháng Mười 20235:01 CH(Xem: 5516)
phương đông có quê hương là mặt trời / phương tây có thành phố đầy cổ tích / gửi về nàng chìm đắm / thanh thản những đóa hoa mộc lan / thì thầm điều to nhỏ / trong khu vườn hoang dã / ngơ ngác như mây mưa…
16 Tháng Mười 20234:35 CH(Xem: 5213)
Bay đi từ cánh đồng nào thân cò của mẹ / Chắt chiu hạt gạo đồng tiền / Mười đứa con nhân lên mười lần thương khó / Một trăm ngã nhọc nhằn vạn nẻo đắng cay
16 Tháng Mười 20234:16 CH(Xem: 4587)
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng.(1) [trích Thông Báo của Cambodia gửi Ủy Ban Thư Ký Sông Mekong]
07 Tháng Mười 202311:06 CH(Xem: 4954)
...Mai Ninh, Trần Vũ, Lê thị Thấm Vân vẫn viết về những vấn đề liên quan đến cuộc chiến đã qua. Trần Diệu Hằng với Vũ điệu của loài công, Mưa đất lạ và Chôm chôm yêu dấu vẫn là những tập truyện ngắn liên quan cuộc sống người tỵ nạn, đến tâm tình từ góc độ một người tỵ nạn. Lê thị Huệ với Bụi Hồng, Kỷ niệm với Mỵ Anh và Rồng rắn vẫn là những soi chiếu vào tâm tình những cảnh đời của nếp sống di dân qua hình ảnh cô sinh viên thuở trước và bây giờ. Nhưng người ta vẫn nhận ra đề tài về tính dục vẫn là nét trổi bật trong các truyện của các nhà văn kể trên (trừ Trần Diệu Hằng). Thứ văn chương với đề tài có xu hướng trổi bật về tính dục đã mở đầu như một thứ cách mạng tình dục trong tiểu thuyết. Trước đây thì cũng có Tuý Hồng, Lệ Hằng, Thụy Vũ... cũng đậm mà chưa đặc, chưa đủ mặn. Ai là người đánh trống, cầm cờ về đề tài này? Có thể là Trần Vũ, Trân Sa hay Kiệt Tấn, Ngô Nguyên Dũng, Hồ Trường An và nhất là Lê thị Thấm Vân. Truyện sẽ không viết, sẽ không đọc, nếu không có trai gái.
23 Tháng Chín 202310:53 CH(Xem: 7201)
Trong những thập niên tới—khi các văn khố hoàn toàn mở rộng—chúng ta mới có thể biết rõ ai là người Việt đầu tiên đã đến Mỹ và tiếp cận với nền chính trị Mỹ. Cách nào đi nữa, Bùi Viện khó thể là nhân vật này… /... Nguyễn Sinh Côn—dưới bí danh Paul Thành, rồi Nguyễn Ái Quốc—có thể là người Việt đầu tiên đến Mỹ, và chắc chắn là người đầu tiên nghiên cứu hệ thống chính trị Mỹ… /... Phần tư thế kỷ sau, Nguyễn Sinh Côn—với bí danh Hồ Chí Minh—thực sự móc nối được với cơ quan tình báo chiến lược (OSS) Mỹ, được tặng bí danh “Lucius,” rồi bước vào Hà Nội giữa cao trào cách mạng 1945.[lvii] Mặc dù Liên bang Mỹ đã chọn thái độ “hands-off” [không can thiệp] khi liên quân Pháp-Bri-tên khởi đầu cuộc tái xâm lăng Việt Nam năm 1945, / ...cũng như thiết lập sự chính thống cho chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, qua cuộc bầu cử quốc hội 1946 và bản Hiến Pháp 9/11/1946...—đồng thời có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến kháng Pháp suốt 8 năm kế tiếp.
21 Tháng Chín 20232:50 CH(Xem: 6529)
Mùa thu trải ra trải ra / Từng bước chân trên ngọn cỏ khô / Có em chạy băng qua cánh đồng hoang tưởng / Nụ hôn vội một sáng ướt mưa / Có phải em và mùa thu / Chia tay và nỗi buồn có thật / Như mưa / Rơi xuống đời nhau.
15 Tháng Chín 202312:19 SA(Xem: 4664)
Vô cùng thương tiếc khi được tin: Anh Nguyễn Văn Cử, Pháp Danh Gelek Gamba / Cựu học sinh Chu Văn An và Trần Lục / Cựu Sĩ Quan Võ Bị Thủ Đức, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa / Sinh ngày 16 tháng 4 năm 1944 tại Hải Phòng, Việt Nam / Đã quá vãng ngày 22 tháng 8 năm 2023 / tại San Jose, California / Hưởng thọ 79 tuổi