- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Cảm Nghĩ Về Cuốn Thơ “các Bài Thơ Việt-nam Khó Quên Unforgettable Vietnamese Poems”

15 Tháng Tám 202110:45 CH(Xem: 11380)


cac bai tho VietNam kho quen

Cảm Nghĩ Về Cuốn Thơ
 “Các Bài Thơ Việt-Nam Khó Quên

 Unforgettable Vietnamese Poems

                                                                                     Nguyễn Công Khanh

 


 

 

Cuốn thơ song ngữ  có tên là “Các Bài Thơ Việt Nam Khó Quên – Unforgettable Vietnamese Poems” của Hương Cau Cao Tân đến với tôi vào những ngày đầu Xuân giữa mùa đại dịch. Sách khá dầy, khoảng 300 trang, trình bầy trang nhã, mỹ thuật, những trang thơ Việt-Anh in song hành dễ dàng đối chiếu.

Sách gồm 100 bài thơ Việt và 100 bài thơ chuyển dịch sang Anh ngữ. Tác giả đã chọn ra 16 nhà thơ nổi tiếng và lựa ra những bài mà tôi chắc rằng nhiều độc giả đã từng ưa thích.  Tôi tạm chia các nhà thơ ra từng thời kỳ để dễ cảm nhận những dòng thơ này:

Thời kỳ Văn Nôm: Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương.

Thời kỳ Tiền Chiến: Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, T.T. Kh.,  Vũ Đình Liên,  Xuân Diệu.

Thời kỳ Kháng chiến: Hữu Loan, Quang Dũng.

Thời kỳ Đất nước chia đôi: Nguyên Sa, Phùng Quán.

 

Những bài thơ của các nhà thơ trên đây có những bài đã được làm ra trên thế kỷ, gần một thế kỷ hay đã trên nửa thế kỷ qua. Trong thời gian đó, thế giới đã thay đổi quá nhanh ảnh hưởng mọi mặt về ngoại cảnh và ý nghĩ tư tưởng của con người, nhưng những bài thơ này vẫn được truyền tụng nhắc đến, chưa quên và vẫn được tìm đọc hay những khi được dùng để trích dẫn.

Sách dịch từ ngoại ngữ như Anh, Pháp sang Việt ngữ thì nhiều, nhưng sách được dịch từ Việt ngữ sang ngoại ngữ thì rất hiếm, đó cũng là cảnh mang chuông đi đánh xứ người của văn chương chúng ta.

Chuyển dịch một bản văn ngoại ngữ sang Việt ngữ đã là một vấn đề, chuyển từ Việt ngữ sang ngoại ngữ sẽ có nhiều vấn đề hơn. Chuyển thơ việt ngữ sang ngoại ngữ lại còn khó khăn nhiều nữa.  Chuyển các văn thơ cận đại hay hiện tại mà hình ảnh và tình cảm vẫn còn sống động, chưa phai dễ cho người đọc hình dung liên tưởng được.  Chuyển thơ cổ, thơ xưa mà hình ảnh và tình cảm xưa đã phai lạt không còn nữa sang ngoại ngữ thì thiết tưởng sẽ không dễ dàng chút nào. Người dịch phải tìm những từ ngữ, ngôn ngữ, câu văn thích hợp để làm sao phải kéo được người đọc về sống lại hay cảm nhận được cái ý và tứ thơ trong khung cảnh và thời gian trong một quá khứ đã xa của bài thơ.

Làm sao mà chuyển sang Anh ngữ được những bài của Bà Huyện Thanh Quan từ hơn một thế kỷ, khi mà không còn những bức tường thành rêu cổ, chú tiều phu lom khom… Làm sao chuyển được những  của Bàng Bá Lân, Huy Cận, Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp…của thời Tiền Chiến, khi không còn những lũy tre xanh, cây đa đầu làng, xóm giếng ngày xưa, cô lái đò chờ khách sang sông.. . Làm sao chuyển được Hữu Loan, Quang Dũng cùng những quán nước sơ xác bên đường của người thiếu nữ Hà thành long đong trong thời lửa đạn, những chiều hành quân qua đồi hoa sim …trong thời kháng chiến hay của Nguyên Sa màu áo lụa năm nào...

Tôi đã đọc nhiều lần những bài thơ mà Cao Tân chọn để dịch, những dòng thơ tuyệt tác này không phải chỉ riêng tôi mà nhiều người cùng lứa tuổi một thời đã thuộc nằm lòng và sống trong mơ với những bài thơ đó đến suốt đời.
Những bài thơ khó quên hay không thể quên được”. Cám ơn Cao Tân đã cho ta đọc lại những vần thơ ấy. Cao Tân không dừng lại ở đó và còn muốn cho những người Việt không hiểu được ngôn ngữ của mình hay những người ngoại quốc không biết nhiều về Việt Nam, một đất nước xa xôi, cũng được hưởng những bài thơ tuyệt tác đó.

Tôi nghĩ đến các vị thâm nho trước đã dùng một kỹ thuật dịch thơ Đường, thí dụ như trong cuốn “Đường Thi Trích Dịch” của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản, một bài thơ chữ Hán được dịch sang thơ Việt ngữ, thường gồm ba phần: phần đầu là nguyên bản chữ Hán, phần thứ hai là diễn nghĩa, phần thứ ba là thơ bằng tiếng Việt. Ngoài ra nhiều bài còn có phần phụ chú về những điển tích hay địa danh.

Tôi đã có một cảm tưởng là Cao Tân đã gộp lại hai bước, phần dịch và phần làm thơ làm một, và đã thực hiện được một cách suông sẻ, nhưng phải dùng nhiều chữ hơn cho một câu thơ. Với cách này độc giả ngoại quốc hay những người trẻ Việt Nam sinh ra chưa bao giờ thấy mặt quê hương, cái tình tự nguyên thủy ngày xưa đó sẽ có thể hình dung thêm được khung cảnh và tình ý của bài thơ   

Hãy đọc lên những câu thơ dịch của Cao Tân, ta sẽ thấy sẽ có những âm điệu và những chữ cuối câu được thận trọng reo vần với nhau để nối các câu thơ thành một bài thơ.

Những câu thơ phải dịch dài thêm chủ ý làm thoát ý, không làm sai lạc, mà còn giúp cho câu thơ nguyên bản được hiểu thêm. Sau đây, hãy thử đi vào những đoạn thơ và phần chuyển dịch sẽ thấy rõ .

Bài thơ “Thăng Long Hoài Cổ” của Bà Huyện Thanh Quan:

“…Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn…”

“… The evening sky fades in the dusk that is approaching
The distant horn’s echoes mixed with the guard station’s drum rolling
Putting the oar’s blade, the fisherman goes back to the distant home
Knocking at the ox’s horns, the herdsman comes to the village alone…”

 Bài thơ “Cổng Làng” của Bàng Bá Lân:

“…Ngày nay dù ở nơi xa,
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng;
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng,
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.”

“…Today even though I am living at a place far away
But when I come back near the banyan tree at the village gateway
Then all the beautiful scenes
that are so dreamy
Would flash back when the gateway appears in rows of bamboo trees.”

 

Bài “Ngậm Ngùi’ của Huy Cận:

“…Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…”

“Tall trees seem to be astounded in their inclined shadows…
- Has your soul become mature after some seasons of sorrow?
My love please let your head lean on my arm in resting
So I could feel the weight of the sorrowful fruits in their falling…”

 

Bài “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư:

“…Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô?”

“…Don’t you hear the autum forest breathing
Of the autumn leaves that are rusting,
And the sound of the bewildered yellow deer that is wandering
Stomping on the dry brown leaves that have been falling?”

 

Bài “Cô lái Đò” của Nguyễn Bính:

“…Bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ giòng sông,
Cô lái đò kia đi lấy chồng
Vắng bóng cô em từ dạo ấy,
Để buồn cho những khách sang sông”…

“Giving up the boat, the steering, and the river full of memories
The boat girl goes away to find someone to mary
She’s definitely gone, vanishing from the scene forever,
Leavimg the sadness in the hearts of the passengers crossing the river.”

 

Bài “Áo Lụa Hà Đông” của Nguyên Sa:

“…Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng”.

“Where are you now, my beautiful autumn with short hair
Please carefully keep the colour of the Ha Đong silk dress there
I always love that colour of the dress, if not forever
Keep for me, the poem of love for a white silk dree, from a poetic poem”.

 

Bài “Đôi Bờ” của Quang Dũng:

“…Xa quá rồi em người mỗi ngả
Đôi bờ đất nước, nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng vương hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào”.

My dear, both of us are on our own so far, far away
Each on either side of the country enduring the missing day by day
You are going wearinga thin coat with tear in vexation streaming
Does your tear of innocence show its nature in its overflowing?”.

 

Bài “ Hai Sắc Hoa Ti Gôn” của T.T. Kh.

“Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu thương”…

“I remember one previous autumn, every day at dusk
Picking up a fallen flower withouth feeling touched
Letting my hair to be dyed with golden sunrays
I patiently waited for him, who was with love on the way”…

 

Tôi còn muốn trích thêm nhiều đoạn thơ nữa để chứng tỏ Cao Tân đã hoàn thành được cái kỹ năng dịch thơ riêng biệt của mình.

  •  

Tôi với Hương Cau Cao Tân quen biết nhau qua mối duyên  tao ngộ qua một mạng văn chương. Mỗi người một nước, chưa từng gặp mặt, cũng chưa biết hình ảnh của nhau, tôi chỉ biết qua Cao Tân qua một đoạn tiểu sử sau:

“Đã di-cư hai lần trong cuộc đời, lần đầu từ miền Bắc Việt-Nam đến miền Nam Việt-Nam trong đợt di-cư năm 1954, và lần thứ hai từ miền Nam Việt-Nam sang Gia-nã-đại, là nơi Hương Cau Cao Tân đã được may-mắn định-cư kể từ năm 1975. Hương Cau may-mắn được đi học chút ít tại quê-hương sau khi hoàn-tất bậc trung-học, đã hoàn-tất chương-trình kỹ-sư tại Phú Thọ, và sau khi đã định-cư tại xứ người, lại được may-mắn đi học lại và cũng hoàn-tất lại chương-trình đại-học trong ngành nghề máy-móc chẳng liên-quan gì đến sự đam-mê văn-chương của mình. Có lẽ vì sự đam-mê nên cho dù không phải là có khả-năng viết lách, Hương Cau cứ vẫn đua-đòi ...viết, nhưng chỉ là viết lại những gì Hương Cau ... bị đam-mê thôi-thúc, và viết ra có thể là trong tiếng mẹ đẻ, hoặc là trong tiếng Anh khó đọc, vốn là thứ ngôn-ngữ đã giúp Hương Cau được sinh-sống rất thăng-trầm trong những ngày tha-phương cầu-thực của đời hậu tỵ-nạn. Hiện-tại Hương Cau đã vượt qua số tuổi hưu-trí, nên mới có thời-gian và cơ-hội... “múa rìu qua mắt thợ” trong một vài bài viết cỏn-con của mình. Mong rằng các bậc tiền-bối và hậu-bối tài-hoa trong lãnh-vực văn-chương thông-cảm cho sự đam-mê.”

 

Hỏi về những dự định tương lai, sau cuốn thơ này, Cao Tân cho biết đang sửa soạn đem đi ấn hành bản dịch truyện Kiều sang Anh ngữ. Cao Tân đã gửi bản dịch đã hoàn tất này qua online cho tôỉ. Ngoài ra Cao Tân cũng đang soạn lại những bài dịch các truyện ngắn hay và quen thuộc tiền chiến, mà hầu hết thuộc các nhà văn nổi tiếng trong Tự Lực Văn Đoàn.

Tôi cũng cố tìm đọc một vài cuốn thơ dịch của các tác giả khác , mỗi người có một cách dịch riêng, khác nhau. Không có một tiêu chuẩn nào, qui luật nào là đúng nhất, nhưng mọi dịch giả đều cố gắng dịch sao cho đúng với ý nguyên bản. Dịch thơ không những chỉ là dịch thuật, mà tôi nghĩ cũng phải là người có chất thơ và lãng mạn đôi chút của riêng mình. Tôi tin rằng Cao Tân ít ra cũng có những điều kể trên.

Dịch giả Cao Tân với phong thái giản dị, khiêm tốn không đề cao công việc mình làm, nhưng với lòng đam mê và nỗ lực đã âm thầm thực hiện được những công trình, hoài bão tôi cho là lớn lao, đáng ghi nhận. Cho dù không nói đến khía cạnh văn hóa mà chỉ nói đến sự đam mê,  nhưng trực tiếp hay gián tiếp cũng đã giúp cho sự lưu truyền văn chương và là cây cầu nối với thế hệ trẻ hay với người không cùng ngôn ngữ.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn thơ “Các Bài Thơ Việt-Nam Khó Quên – Unforgettable Vietnamese Poems” của Hương Cau Cao Tân đến quý độc giả.

NGUYỄN CÔNG KHANH

 

*Email liên lạc với Hương Cau Cao Tân: thomastncao2014@gmail.com

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 97530)
...T hoắt đó họ ngã xuống, họ la làng, ông thầy_ngưng bắn rồi mà sao em chết. Thản nhiên. Cuồng nộ nếu có đã bị dìm vào thinh lặng, cuồng nộ trắng. Cái vô lý dửng dưng của Cao xuân Huy đứng bên cái dằn vặt đớn đau tha thiết của Phan nhật Nam như hai mặt của một đồng tiền... 
29 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 82700)
" Ở một nơi mà tự do chỉ có thể tồn tại trong những hành vi tùy tiện của chính quyền thì những cố gắng cho sự hiện diện của công lí và tình người dường như là vô nghĩa, và để hành động cho những điều tưởng như viển vông này chúng tôi đã chọn xuất bản." (Bùi Chát)
28 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 81810)
...C ó người cho rằng Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng lớn chủ nghĩa siêu thực của Baudelaire.[20] Ông đã thụ lĩnh từ tác giả “Hoa ác” một cảm quan ma quái để đi vào thế giới đau thương, rồi cứ bị thôi miên bởi vẻ đẹp kỳ lạ, kinh dị.[13] Tuy nhiên, theo tôi chúng ta cần lý giải theo chiều hướng khác, dưới góc nhìn của văn học so sánh. Đây chính là hiện tượng tương đồng khi có cùng hoàn cảnh sáng tác trong sáng tạo nghệ thuật...
28 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 91480)
... C hung quanh tôi là ngôn ngữ Việt, thứ ngôn ngữ hào hùng như những lời ca vang vang trên loa công viên. Sân khấu lộ thiên tỏa sáng [...] Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu. Cờ bay, cờ bay tung trời ta về với quê hương... [...] Núi đồi Bataan ngàn đời câm lặng, đã mở ra đón những người tỵ nạn xa lạ.
27 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 94275)
N hà thơ Bùi Chát, người sáng lập nhà xuất bản Giấy Vụn ở Việt Nam, đã giành được Giải thưởng Tự do Xuất bản năm 2011 “vì lòng can đảm mẫu mực trong việc giữ vững tinh thần tự do xuất bản,” như thông báo của Hiệp hội Quốc tế các nhà Xuất bản (IPA). Chủ tịch IPA, YoungSuk “Y.S.” Chi, chính thức trao giải thưởng năm nay tại một buổi lễ do Hội chợ Sách Buenos Aires lần thứ 37 tổ chức vào ngày 25 tháng Tư năm 2011, như một bộ phận của chương trình Thủ đô Sách Thế giới.
26 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 93674)
LTS : Nhà văn Cao Xuân Huy mất vào mùa Thu 2010, đã có rất nhiều bài viết về anh trên các báo in và báo mạng. Tạp chí Hợp Lưu trong thời gian đó chỉ kịp đăng lời phân ưu. Đến nay, Hợp Lưu 113 số tháng Ba và Tư của năm 2011, chúng tôi xin dành riêng một số trang đặc biệt để đăng những bài viết về anh của văn hữu Hợp Lưu, đồng thời trích đăng một số sáng tác trong hai tác phẩm “Tháng Ba Gãy Súng” và “Vài mẩu chuyện” của Cao Xuân Huy như một nén hương thân kính gởi đến anh thay lời từ biệt. Tạp C hí Hợp Lưu
25 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 98881)
Tin Rome - Bà Trần Lệ Xuân, vợ của ông Ngô Đình Nhu là cố vấn của Tổng thống Ngô Đình Diệm thuộc đệ nhất Cộng Hòa tại miền nam Việt Nam, đã qua đời ngày hôm qua tại tư gia ở Ý Đại Lợi.
23 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 82819)
T in tức về chỗ tàu sẽ vào bốc tưởng rằng rất kín đáo, rất bí mật, chỉ riêng Thủy Quân Lục Chiến biết, hóa ra đã có quá nhiều người biết. Chuyến tàu dành riêng cho tiểu đoàn 4, nhưng khi chúng tôi đến nơi, số người đã đứng đợi sẵn cũng có đến cả vài ngàn, xấp xỉ với số người đang chạy ngược chạy xuôi theo chiếc tàu.
23 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 188378)
LTS : V ới những trang viết thật ngắn, bằng nét phát hoạ tưởng như vô tình, Hoài Băng gởi đến độc giả một bức tranh, một khúc phim ngắn như vết dao cắt trong lòng người đọc về xã hội Việt Nam ngày nay.( TCHL)
23 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 85554)
LTS : ... Chúng tôi trân trọng gởi đến quí văn hữu và bạn đọc bài viết “Nỗi niềm thế hệ trong ký và tự truyện của Văn học Di dân Việt Nam” của Nguyễn Hạnh Nguyên, một người viết trẻ, sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, nhìn về quá khứ xuyên qua tâm tư của thế hệ sinh trưởng trong thập niên 60 ở miền Nam, từ sau biến cố lịch sử 30 tháng 4 năm 1975. Tạp Chí Hợp Lưu