- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGHỀ VĂN KHÔNG SANG TRỌNG, NHƯNG VĂN CHƯƠNG LẠI CẦN CAO QUÝ SANG TRỌNG.

25 Tháng Ba 202110:32 CH(Xem: 11449)
ThuVienSach-bw
Thư viện - ảnh Internet



Tôi vừa đọc một bài viết sâu sắc, lý thú của GS Trần Đình Sử: "Nghề văn không sang trọng". Với kiến giải của một bậc thầy, và với sự phẫn nộ của một người cầm bút chân chính trước những gì đang làm hạ thấp văn chương, GS đã thẳng thừng phang vào thói háo danh đồng thời vạch ra thực chất của lao động chữ nghĩa: "kiếp nhà văn ở đâu cũng thế thôi. Họ nhặt rác để kiếm ăn, để bảo lưu giá trị văn hóa, dựng xây xã hội, phản kháng bất công từ một địa vị thấp". Và ông kết thúc bài viết trên, mở ra nội dung của một vấn đề lớn khác: "Văn chương rất cần sự cao quý nhưng không cần sang trọng". Tôi, một học trò của ông, xin làm một kẻ "ăn theo nói leo", liều mạng phát triển thêm những gì mà GS chưa kịp nói.

     Trước hết xin phép được mở rộng thêm khái niệm - không chỉ dừng lại ở nghệ thuật chữ nghĩa mà là nghệ thuật nói chung.

      Cách đây trên hai ngàn năm, nhà triết học Hy Lạp lỗi lạc Aristote đã nói đến sự cao nhã, và đề cập tới quy luật thanh lọc, tẩy rửa (katharsis) của nghệ thuật bi kịch: "bi kịch, qua cách khêu gợi sự xót thương và sợ hãi, thực hiện sự thanh lọc các cảm xúc đó" (1). Và hơn hai ngàn năm sau, một giáo sư Đại học Cambridge, ông Adrian Poole lại nói về những "tiếng kèn xung trận" khích lệ con người của bi kịch- một trong những nghệ thuật cổ xưa nhất mà cho đến nay còn có khả năng lay động, thanh lọc nhiều trái tim; ông liệt kê ra đó là: Danh dự, Vinh quang, Tiếng gọi bí ẩn của Lý tưởng... rồi suy ngẫm: "Dù là từ gì đi nữa, thì chúng vẫn luôn chứa đựng một ý niệm về sự công chính, và về một nghĩa vụ tuyệt đối với nó, như là cái gì đó thuộc về bản thân ta hay những người khác một cách không tránh được..."(2). Tôi tự nghĩ: phải chăng có thể coi những "tiếng kèn xung trận" đó không chỉ là cái lý do tồn tại của toàn bộ nghệ thuật (chứ không chỉ riêng bi kịch cổ đại) mà còn là cái gốc của sự "cao nhã", sự "sang trọng" mà nghệ thuật đích thực Xưa-Nay vốn có và cần gìn giữ?

     Roland Barthes có kể lại câu chuyện về một vụ án trong đó giới quan tòa quý tộc với "tất cả phép tu từ trong nhà trường được tung ra ở đây để buộc tội một ông lão chăn cừu... Công lý đã khoác cái mặt nạ của văn chương hiện thực, của truyện dân dã". Và dưới góc độ mỹ học, ông vạch ra bản chất xã hội nhơ bẩn của vụ án đó: "Nhân danh chính ngôn ngữ để đánh cắp ngôn ngữ của một người, mọi vụ sát nhân hợp pháp đều bắt đầu từ đấy"(3). Rõ ràng là, "những phép tu từ bóng bẩy, bay bướm" mà Roland Barthes đả kích sâu cay đó chỉ là kết quả tư tưởng thống trị áp đặt, chứ đâu phải là biểu hiện của sự cao quý, đúng đắn, sang trọng trong văn chương? Câu chuyện trên vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự!

     Cách đây hơn hai chục năm, tôi có được xem một bộ phim tài liệu nghệ thuật (nhựa màu 3 cuốn) về chân dung nhạc sĩ Văn Cao, và có một tình tiết khiến tôi bị ám ảnh mãi - không phải vì sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, mà bởi sự thiếu "sang trọng" rất phản cảm của nó: những người làm phim đã buộc nhạc sĩ ngồi bên cây đàn piano, giơ cả hai khuỷu tay đập mạnh vào phím đàn như một người mất trí, hoặc căm hận ai đó, và không chỉ một lần! Người nghệ sĩ chân chính bao giờ cũng tôn trọng phương tiện nghệ thuật của mình, trong thực tế không ai làm như vậy! Ông nghè Chu Mạnh Trinh giỏi thơ, hay đàn, khi ông mất, người dân Phú Thị đặt trong đền thờ ông cây đàn tỳ bà mà ông hằng yêu quý, dù đã mất hết dây nhưng chắc chắn không phải do ông tự dứt, tự đập đàn trong một lúc bất mãn nào đó! Tôi được nghe kể lại: ông nội tôi, vốn là một nhà giáo, thường chơi đàn nguyệt. Mỗi lần hứng thú chơi đàn, ông mang đàn ra lau chùi nhẹ, thắp hương cẩn thận rồi mới lên dây, bấm phím, mặc dù lắm khi "Một cung đàn nguyệt gảy rồi treo", nhưng thực là trân trọng... Tội nghiệp nhạc sĩ Văn Cao, sau khi làm phim, ông có tự nguyền rủa mình vì đã làm theo cái yêu cầu rất ngông thiếu văn hóa đó của đạo diễn? Rồi cả cái tên phim nữa: "Người đi trên cát không để lại dấu chân". Ông nhạc sĩ tài hoa đó là ma chăng?

     Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc sinh thời có quan hệ khá thân thiết với một nhà văn, khi nhà văn này đề nghị nhạc sĩ cho nhận xét về một tác phẩm mới thì nhạc sĩ cứ lảng tránh; nhưng rồi, nhạc sĩ đã phải có ý kiến như sau, được in lại trong một cuốn sách về TCS: "Trong tác phẩm của anh, có tất cả những gì mà tôi và những người đọc khác cần tìm... Nhưng, duy có một điều mà tôi không thấy, đó là sự sang trọng..." (Tôi xin phép không nêu tên nhà văn đó ra, cũng là theo yêu cầu của đạo diễn Đặng Nhật Minh- người kể lại chuyện này). Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã về nơi thiên cổ, lại chưa từng bàn cụ thể về điều này (theo sự đọc của tôi) nên không ai có thể hiểu rõ, ông quan niệm thế nào là sự "sang trọng" của nghệ thuật? Nhưng với những gì mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cống hiến cho đời, bằng những giai điệu ca từ thể hiện rung động thấm thía nỗi cô đơn của một tâm hồn trĩu buồn trước sự hữu hạn của đời người và nỗi khát khao cho một dân tộc Da vàng được Tự do, tác phẩm của ông có thể coi là những minh chứng hùng hồn cho sự Sang trọng của nghệ thuật.

     Trong một bộ phim truyện VN hoành tráng làm theo tác phẩm "Chùa đàn" của nhà văn Nguyễn Tuân viết trước CM, có tình tiết cô gái câm chứng kiến cảnh ông chủ họ Nguyễn làm tình với bức tượng gỗ to bằng người thật. Nếu như Nguyễn Tuân mượn tiếng đàn của nhân vật giải tỏa nơi con người “cái tâm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng"(4) bằng chữ nghĩa và sự tưởng tượng nơi người đọc (một cách sang trọng) thì trong phim, các tác giả đã làm công việc hiện hình cái “tâm tức sinh lý” ấy một cách trần trụi, nó lại được ánh sáng trau chuốt, ống kính cận cảnh vào đặc tả kèm tiếng động chân thực (thông qua cái nhìn của cô câm) làm tôn lên nhiều lần cái cảm giác thú vật từ nhân vật hòng lây lan sang khán giả. Nếu có ai dám nói đó là thành công thì nên hiểu rằng đó là một điển hình thành công của một cuộc “thủ dâm” bằng điện ảnh! Điều đó làm sao có thể gọi là sự sang trọng? Từ chỗ cố tạo ra độc đáo, đúng hơn là kỳ quặc - tới chỗ lăng mạ phẩm giá con người chỉ cách nhau một sợi tóc!

     Ý đồ tư tưởng của nghệ sĩ và các phương tiện thể hiện cần tới một năng lực thẩm mỹ tốt cùng một trình độ văn hóa cần thiết để có thể tạo sự "sang trọng" cho tác phẩm - dù chất liệu tác phẩm có là những thứ xấu xa bẩn thỉu đến đâu chăng nữa. Còn nếu như những thứ tục tĩu rác rưởi được ném vào tác phẩm chỉ để nhằm thỏa mãn một ẩn ức tâm lý - chính trị - xã hội... nào đó, thì đấy đâu phải là tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa để mà bàn tới sang trọng hay không sang trọng!

     Nhà văn Trần Đình Sử có nhắc lại điều tác giả Benjamin đã ví: nhà văn nhà thơ như người nhặt rác, nhặt nhạnh lưu giữ những gì còn có giá trị và tái chế... Vâng, đúng vậy! Và tôi nghĩ: nhà văn nhà thơ không chỉ trân trọng nhặt nhạnh những gì là "rác", mà còn nâng niu những gì là nguyên liệu tinh khôi, là "khí của trời đất" - như danh nhân văn hóa Nguyễn Văn Siêu trước cảnh vật Hồ Tây đã thốt lên: "Ôi, muôn vật trong trời đất, cái lớn nhất là con người, là sông núi, con người đã mất thì sông núi lại còn sao được! Chỉ có cái khí của trời đất, tích tụ chuyển vận bên trong, hun đúc nên con người. Con người được cái khí của sông núi mà thành; sông núi lại được cái khí của con người mà thể hiện ra, hợp thành cái khí bất diệt. Khí ấy tung hoành ào ạt trên giấy bút, dù bể dâu biến đổi, muôn đời còn mãi với thời gian"(5). Với cả hai chất liệu đó của nghệ thuật - "rác của đời" lẫn "khí của trời đất", người nghệ sĩ đều cần đối xử với chúng một cách trân trọng, sòng phẳng, không lợi dụng chúng cho mục đích cá nhân ích kỷ, không làm méo mó chúng qua cái nhìn thiển cận độc đoán, phải chăng đó là điều kiện tiên quyết giúp nghệ thuật trở nên có ích, cũng có nghĩa là cao quý, sang trọng?

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

 _______________

1. Nghệ thuật thi ca, nhiều người dịch, Nxb Lao động, HN 2007, tr.33

2. Bi kịch-dẫn nhập ngắn, Đinh Hồng Phúc dịch-Nxb Tri thức, HN 2012, tr.116

3. Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb Tri thức, HN 2008, tr.81

4. Nguyễn Tuân tuyển tập, I, Nxb Văn học HN, 1996 tr.398

5. Phương Đình văn loại - Người dịch Trần Lê Sáng, Nxb văn học 2001, tr.34

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Tư 200912:03 SA(Xem: 96442)
IV. NGÀY TÀN CỦA BẢO ĐẠI: Việc Diệm quyết định đánh dẹp Bình Xuyên, ngược lại chỉ thị “ôn hòa” của Bảo Đại, khiến Bảo Đại chẳng còn lựa chọn nào khác hơn phản ứng mạnh với Diệm. Tuy nhiên, phản ứng của Bảo Đại chẳng khác gì tiếng vạc kêu sương. Uy quyền của Bảo Đại chỉ là thứ uy quyền trên giấy tờ, với sự phê chuẩn của những thế lực sau lưng.
05 Tháng Tư 200912:00 SA(Xem: 76048)
Họ ngừng trò chuyện nơi đây vì xe đậu lại ngay trước khu chung cư năm tầng lầu. Đến nhà ông bà Mi-Sơ-Vanh rồi. Cả bọn lục tục ra khỏi xe. Lại nghe vang to rầm rầm tiếng cửa xe đóng mạnh.
05 Tháng Tư 200912:00 SA(Xem: 84728)
C. CHẤM DỨT LIÊN MINH MỸ-PHÁP: Ngày Chủ Nhật, 8/5, nhân Hội nghị Tam cường và Hội nghị Bắc Đại Tây Dương từ ngày 9 tới 11/5/1955 tại Paris , Dulles, Faure và Macmillan họp bàn về Việt Nam . Bộ trưởng Các Quốc Gia Liên Kết Laforest (3-10/1955) trình bày tình hình Đông Dương.
28 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 109906)
Hai Ông Hoàng Xuân Hãn và Phan Anh đã nói gì về Bảo Đại, Trần Trọng Kim và chính phủ của hai ông này? (Bài thứ hai Viết thêm về hai ngày 19 tháng 8 và 2 tháng 9, 1945)
25 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 98794)
Tháng Ba của người lính ấy thật ra chỉ 11 ngày. Nửa đầu quyển sách là nhật ký hành quân giản lược của 10 ngày, mở ra với vài ngày tiên khởi của một cái vòng luẩn quẩn, tiến dần đến việc từng ngày, rồi từng giờ từng lúc.
19 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 152066)
LTS . ...Dù lịch sử đã sang trang từ lâu, bài ký ức về Tướng Lê Nguyên Vỹ, cố Tư lệnh SĐ 5 BB–người đã chọn chết theo thành, và không nỡ bắt "con em người ta gửi gấm cho mình" chết oan uổng ở những giờ phút tàn cuộc của chiến tranh Việt Nam–là một trong những tài liệu hiếm hoi, có giá trị sử liệu. Hợp Lưu trân trọng giới thiệu tác giả Triệu Vũ với quí độc giả. Tạp Chí Hợp Lưu
10 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 87849)
Đầu Xuân Kỷ Sửu (25/1/2009) tôi khởi đầu việc hiệu đính phần tư liệu lịch sử Việt từ đời Ngô (938-965) tới đời Nguyễn (1802-1945). Đây có lẽ là lần hiệu đính cuối cùng, và khá tốn thì giờ vì việc chuyển đổi từ lịch Ta qua lịch Tây.
10 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 88173)
Phần III. G. TÀI LIỆU VIỆT: Ngoài tài liệu Trung Quốc, sử quan Việt cũng sử dụng một số tư liệu trong nước.
10 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 91390)
Phần II. Cần nhấn mạnh, mang quân xâm chiếm, chia ra quận huyện để đặt dân Việt vào “vòng lễ giáo” Hán tộc [ kiểu cho đào mộ tổ tiên Lê Lợi năm 1418 (Thông sử, 208 [truyện Trịnh Khả]), hay thiến hoạn thiếu niên Việt] , chỉ là hai trong những biện pháp lấn đất giành dân.
10 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 99679)
Phần IV II. VIỆC NGHIÊN CỨU THỜI CẬN ĐẠI (1800-1975): Giai đoạn trước 1975, việc nghiên cứu sử học đã có nhiều nguồn tư liệu hơn để làm việc. Tài liệu đáng tin cậy nhất, dĩ nhiên, là tài liệu văn khố. Nhiều nhà nghiên cứu sử học chuyên nghiệp đã sử dụng tài liệu văn khố Pháp, Mỹ và Liên Sô. Mới đây, văn khố Hội truyền giáo Hải ngoại cũng đã mở rộng, sau nhiều thập niên “cho người chết ngủ yên.”