- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI

03 Tháng Mười 20199:24 CH(Xem: 16115)

SAI GON 4
Sài Gòn Chiều Mưa - ảnh UL

 

     Hốp ngụm trà còn bốc khói, ông Tư  kể tôi nghe câu chuyện những ngày ở Sài Gòn, đưa con đi thi đại học, trông ông vơi đi dáng dấp sởi lởi vốn có mà đượm cái buòn hiu, an phận.

    "Chậc,mình già rồi, thật sự già rồi. Có đi chỗ này chỗ nọ mới cảm nhận dòng chảy của thời gian, có bon chen ngược dòng cùng thiên hạ mới ngộ được cảnh của mình". Trầm ngâm một chút như để tìm câu vừa ý. Mỗi người đi qua cuộc đời này như cái bóng, nhưng bóng của mình mới nhạt nhụa làm sao!"

  "Mỗi người đều có phần số cả".

  "Đó chỉ là cách nói, nhiều lúc do cái chí của mình không biết cựa quậy nên để nhiều vận may vuột mất"

  "Tôi đã nói mà lại, mỗi người đều có phần số cả, như ông chẳng hạn, ông đã cựa quậy cho cái tình của mình, còn người đời cựa quậy theo cách riêng của họ".

   Nỗi buồn thoáng qua, ông Tư uống cạn chén trà mà quên chừa cặn. Nỗi buồn hay lây, tôi cũng nhủng nhiểu cái trống vắng của ông, mặc dù hai chúng tôi chưa già nhưng không còn trẻ nữa.

Bóng chiều đậu trên chậu kiểng đặt ở góc nhà ánh lên màu vàng nhợt nhạt, ngọn gió nồm từ bờ sông thổi vọng lên vơi đi nỗi buồn lặng lẽ.

   "Hai cha con tôi đến nhà trọ ở gần chợ Tân Định, đến buổi ăn trưa, vào quàn xập xòe ở lều chợ kêu hai tô phở, một chai bia Sài Gòn. Ông có biết họ tính bao nhiêu không. Một trăm năm mươi ngàn đồng, tôi trả tiền mà ruột gan cứ nóng bừng bừng".

Vẻ mặt ông giản ra, vui vui. Tôi “đế “  một câu.

  "Thấy vẻ ngờ nghệch, dáng dấp nhà quê của cha con ông, họ chặt đẹp đó mà"

  "Lối ẩm thực mỗi vùng miền mỗi khác, mình không dám lạm bàn, nhưng giá cả thì chênh lệch quá rõ, như tô cháo lòng bà Thạch ở quê mình chỉ năm ngàn, nếu ở Sài Gòn giá phải mười ngàn. Không đâu bằng ở quê mình, thức ăn bao giờ cũng ngon và rẻ".

   Lên thành phố lần này ông choáng ngợp cảnh phồn hoa đô hội. Cái gì cũng lạ lẫm, nhìn vào đâu cũng  tò mò thú vị. Người cùng thời với mình mà như tưởng lạc vào hành tinh xa lạ nào đó. Phố xá rộn ràng với bao sắc màu, người và xa, xe và người mườm mượp . Ông đi dạo, đường sá rối như mạng nhện nên khong dám băng qua các ngã rẽ vì sợ va quẹt, nên ông cứ thẳng đường Hai Bà Trưng mà tới bến cảng. Nhìn những con tàu đồ sộ, ca bin tàu sang trọng như những nhà cao tầng chồng khít lên nhau, bóng đèn vàng xanh luôn nhấp nháy trông vui mắt. Gió từ lòng sông thổi vọng lên mát rười rượi, lòng thanh thản dễ chịu như được hít thở không khí dòng sông quê nhà. Lúc trở về hơi mõi, ông ghé công viên Lê Văn Tám ngồi trên ghế đá nhìn dòng người qua lại, ông cố căng mắt tìm người quen, gặp người đồng hương trong hoàn cảnh này thì thật là thú vị. Nhưng ông lại cười thầm, thật ngớ ngẩn, Sài Gòn muôn vạn người dễ gì có được mấy dịp may. Vài cô có tuổi bằng con gái ông nhỏng nhảnh đi qua đi lại trước mặt hé đôi môi mọng nước mà cười mím chi, tỏ ý muốn rủ rê ông làm chuyện bậy bạ. Ông nhìn qua góc sáng có đôi trai gái ôm ghì lấy nhau. Như mắc cở với chính mình, ông vội rời khỏi cái bóng đêm chập choạng ấy, nơi không để cho tạng người như ông.

Một gã cởi Dream2 trờ tới

   "Bác về đâu?"

   "Tôi không đi xe, nhà gần đây thôi". Ông chỉ tay về hướng chợ Tân Định.

   "Gần mấy cháu cũng chở, cháu phục vụ bác về tận nhà"

    "Đã bảo tôi không đi xe mà lại".  Ông lắc đầu với giọng cáu kỉnh. Ông thả bộ dọc theo vĩa hè. Gã lái xe nhì nhằng với ông một đoạn khá xa, chừng như chẳng được xơ múi gì, gã lên xe rú ga, bỏ lại sau lưng dúm khói và câu nói chẳng lọt tai tí nào

  "Lão khùng!"

Ông lửng thửng đếm từng ngôi nhà cao tầng thấp tầng ngút ngát. Thế cũng gọi là đã biết Sài Gòn, Sài Gòn trong ông chỉ vỏn vẹn mỗi một con đường mà đi không hết.

 

*****

 

    Ông Tư xuất thân trong một gia đình có máu mặt ở làng tôi. Cha ông là xã trưởng dưới thời Ngô Đình Diệm. Tôi còn nhớ khi cha ông đi làm thường cỡi chiếc xe mô by lết sang trọng. Cứ mỗi chiều lũ chúng tôi chờ ông ở đầu làng, khi nghe tiếng xe bình bịch thoáng qua là cả bọn chạy ào ra đường hít lấy hít để làn khói xanh mỏng mảnh rồi ré lên:  "Thơm quá xá là thơm!"

Với lũ chúng tôi, cha con ông như ở cõi nào xa vợi, rất cách biệt với những con người chân đất. Ông là một con người điển hình thời tây ta lẫn lộn, ngày làm việc bình thường ông mặc bộ côm lê, cà vạt, đôi giày tây đen bóng. Những ngày lễ hay vào dịp tết, ông diện áo dài the, khăn đóng, quần lãnh trắng của nhà nho cổ kính.

Khu nhà ông tọa lạc ở cuối làng, trong khoảng đất rộng được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai, vườn trồng nhiều cây kiểng, có hòn non bộ hình bán nguyệt, có nhiều loại chim quý như một công viên nho nhỏ. Lũ chúng tôi rất thích khu vườn ấy nhưng chỉ biết nhìn từ xa. Nếu có dịp được vào nhà, nhìn hai con chó bẹc giê là đủ sợ muốn đái ra quần.

Nhưng sự đời luôn có cái bất ngờ thú vị. Cậu ấm Tư đem lòng yêu cô thanh, con gái lão lái đò ở đầu làng. Cái tin đó làm xôn xao làng xã, làm hụt hẩng những chàng trai thầm yêu trộm nhớ, rắp ranh bắn sẻ nhưng chưa kịp ngỏ lời. Nhưng với ông xã, nó như tiếng sấm rền giữa bầu trời quang đãng.

Nhìn cô Thanh chèo đò ai cũng khen là đẹp, ẩn trong cô cái duyên lặng thầm của cô gái vùng sông nước. Làn da nâu nâu bánh mật, dáng thon thả non tơ in xuống dòng sông xanh hòa quyện cùng rặng dừa nghiêng soi bóng nước, như một bức tranh thiên nhiên thủy mặc,  lung linh màu ánh bạc.

Con đò là môi giới cho mối tình đầu cậu ấm, dòng sông đã bao lần chứng giám lời thề nguyền chung thủy sắc son cho đôi tình nhân. Và những đêm trăng huyền ảo, ai có thể cấm cản chàng Tư thay thế ông già, hai người giăng lưới trên dòng sông vắng, tiếng lao xao của mái dầm vỗ về sóng nước nhập nhòa trong tiếng thì thầm hạnh phúc lứa đôi.

   Nhưng cuộc tình này không được dài lâu.Với địa vị của ông xã và cậu quý tử vùng nông thôn có thể nào sánh duyên cùng cô lái đò, một gã mò tôm bắt ốc ven sông sui gia sao được với con người có thế lực, giàu có như ông xã. Cơn thịnh nộ xảy ra âm thầm nhưng quyết liệt ngay tại nhà ông và phần thua thiệt bao giờ cũng thuộc về kẻ thấp cổ bé miệng. Cái thân dềnh dàng hộ pháp như muốn ăn tươi nuốt sống cái bóng gầy gò tiều tụy của gã lái đò, sự mặc cả xảy ra chóng vách, êm xuôi như câu chuyện tầm phào nào đó.

  "Ông cầm số tiền và đi biệt khỏi xứ này, ngay ngày mai. Nếu còn gặp cha con ông ngày nào thì đừng trách ta là độc ác!”

Lời nói của ông xã trưởng đố ai dám cải. Nếu có trái lời ông phết cho tội danh "Việt Cộng nằm vùng" thì cha con ông hết con đường sống!

Từ ngày đó, dòng sông quê tôi vắng bóng cô lái đò yểu điệu nết na, mái dầm khua nước như lạc điệu với con đò. Vầng trăng còn đó, còn mãi sáng soi trong ngần ấnh nước. Sông trăng còn đó, con đò còn đó, nó còn  có đôi có bạn với bến. Duy có một người cô đơn, cứ mỗi mùa trăng laị thầm lặng nhìn con nước, thả nỗi buòn trôi đi đâu, về đâu!

  Bẳng đi một thời gian dài, chàng Tư si tình vắng bóng với con đò, với dòng sông quê cũ. Người trong làng bán tín bán nghi
về lời phao truyền của ông xã rằng chàng Tư vào Sài Gòn lập nghiệp, nhưng lại có tiếng xì xầm rằng cậu ta trốn theo cô Thanh "nhảy núi".

    Dòng đời cứ trôi,chuyện cũ dần quên. Bao biến cố lịch sữ như con lũ cuốn trôi mọi trật tự xã hội, đảo lộn mọi định kiến lâu đời của làng quê xưa. Cậu ấm Tư thời vàng son theo người yêu lên rừng tham gia kháng chiến, chàng yêu nước bằng tất cả trái tim yêu, có gian khổ nhưng chàng hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn sơ ngập tràn ánh nắng. Nhưng cuộc chiến ngày càng khốc liệt không cho phép chàng có nhiều thì giờ để mà mơ mộng, tự do xây đắp tổ uyên ương. Trong chiến tranh ác liệt đó, chàng Tư bị bắt hay đã đầu hàng, nhưng dù gì đi nữa chàng vẫn bị đày ra Côn Đảo. Ở đó, chàng đã bày tỏ thiện chí của mình, nhưng thế nào đi nữa thì tổ chức vẫn quy cho chàng đã phản bội lại lý tưởng của mình, một kẻ bán rẽ đồng đội trong trận càn hôm đó.

   Trung đội lính bảo an ở thị trấn tràn xuống làng tôi, bao vây hầm bí mật theo sự chỉ huy của  trung úy đồn trưởng, gã chắc mẩm sẽ tóm được mẻ cá lớn nên đã bố trí trận đánh thật bài bản, theo kinh điển mà gã đã học ở phương tây. Theo mật báo, hầm bí mật có năm người, cán bộ cấp huyện hoặc cao hơn. Đầu tiên gã dùng chiêu bài tuyên truyền, loa phóng thanh mở âm tần hết cở, lời hoa mỹ tuôn tràn như gió mây, bài bản tâm lý chiến: ”Hỡi cán binh cộng sản, các bạn hãy quay về với chính nghĩa quốc gia, chính phủ sẽ khoan hồng những sai đường lạc lối của các bạn. Về với chính nghĩa quốc gia, các bạn sẽ có dịp di thăm nước Huê Kỳ hùng mạnh. “Mỹ thua Mỹ về nước, binh sỹ thua binh sỹ về đâu?” Khi những lời hoa mỹ gần cạn lại được tiếp sức bằng bài hát não nùng. Nửa đêm nhớ anh, buồn thương xé nát con tim, hoặc những  bài hát  roch rap, giật gân do Hùng Cường và Mai Lệ Huyền thể hiện. ”Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi, em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời.. “  Thời gian cứ trôi, âm thanh cuồng nộ cứ sâm sả nhưng tình hình vẫn chưa chuyển biến theo hướng tích cực. Hầm bí mật vẫn im lìm, bí mật trùm lên bí mật. Nôn nóng, gã hét to trong loa: ”Đù mẹ, bắt sống bọn chó đó, đừng để tên nào chạy thoát. Chống cự, bắn!”

 Cả trung đội tiến sát gần miệng hầm, có người nằm dí sát mặt đất, bò như con lươn. Họ phát hiện ra lỗ thông hơi và ném lựu đạn cay xuống đó, cố bắt sống cho bằng được bọn họ. Nắp hầm bật tung, một bóng người phóng ra, thấp thoáng. Có tiếng la to : ”Lựu đạn ,anh em ơi, lựu đạn!”.Một tiếng bịch liền sau  nhưng đó không phải là tiếng nổ.Trái lựu đạn bị tịt ngòi, nó ẩm mốc hoặc do quýnh quáng nên anh cán bộ quên rút khóa an toàn. Một loạt đạn quét ngang cái bóng đó, cái bóng ngã quỵ nhưng cố lết về bụi gai xương rồng. Căn hầm bí mật đã bật mí, nó trống huơ trống hoác, từ trên nhìn xuống một màu tối ôm, cả trung đội chưa có người nào dám mò tới. Con hổ bị què nhưng vẫn là con hổ, cái nanh vuốt trong trí tưởng tượng mới đáng sợ làm sao!

 Sóng đã yên, biển đã lặng. Thật rủi cho anh du kích, cái rủi có trong truyền thuyết Trọng Thủy-Mỵ Châu, cái lông ngổng của nàng Mỵ Châu mới tai ác, nó là điểm kết thúc câu chuyện tình lãng mạn. Vết máu của anh, anh không muốn tí nào nhưng nó vẫn cứ vương vải, là điểm báo dừng cho cuộc đời anh trên cõi đời này!

 Bọn họ lôi anh ra khỏi bụi xương rồng, mình bê bất máu, trói gô bên gốc cây nhản. Anh kiêu hảnh nhìn mọi người, nhìn trời đất, nhìn mây trôi và gió phất phơ tà áo. Ôi! Trên trái đất này, gió mới hào phóng làm sao, gió mơn man da thịt, gió thổi vào tâm hồn anh nhịp đời phơi phới tuổi xuân. Anh hai mươi tuổi đời, đã trôi qua bao mùa bão tố, bao nhiêu trận gió nồm nam thổi ngược, mà đôi lúc anh hờ hửng với gió biết bao nhiêu. Khi người ta đói, hạt cơm là hạt ngọc, anh từ dưới đất móc lên, gió là vật quý của đời riêng tặng cho anh. Anh mãi mê tận hưởng gió, hít căng nó vào lồng ngực mà quên có viên trung úy quét ánh mắt dao cạo nhìn anh.

 -Năm đồng chí cở bự của mày ở đâu?

 -Không biết.

 -Mày du kích hay bộ đội chủ lực?

 -Liên lạc viên.

 -Mày mấy tuổi đảng.

 -Chưa vào đảng.

 -Quê mày ở đâu?

 -Gò Nhản.

 Suốt buổi sáng, cả trung đội sục sạo hết hang cùng ngõ hẻm để tìm năm đồng chí cở bự nhưng bí mật vẫn hoàn bí mật, có hoặc không thì chỉ có trời biết, đất biết  và anh du kích kia biết, Anh du kích vẫn câm như hến.

 Anh du kích dõng dạc hô to:”Đả đảo Đế Quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước ..!” khẩu hiệu được anh hô đến ba lần. Tiếng hô vừa dứt thì thân anh cũng vừa ngã xuống, vết máu loang vùng bụng, ngực và còn đọng thành vũng trên bãi cát xóm Bến Đò Xứ.

   Làng tôi trở thành vùng trắng. Ban ngày, lính từ thị trấn tràn xuống. Ban đêm, nó trở thành đất thiêng cho những du kích địa phương, họ quy tập những thằng Dzô, thằng Dza, những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch, vát súng trường bằng cái thân còm, ham vui mà chạy theo  đơn vị bộ đội chủ lực từ miền Bắc vào ém quân. Người dân  kẻ chết người còn. Kẻ sống tản cư tứ tản mọi nơi, tìm chốn yên tĩnh, đến những nơi  mà ngày trước gọi là vùng bị  tạm chiếm, mà trú thân. Người đến Qui Nhơn, Vũng Tàu hay Sài Gòn để lánh nạn.

 

 

*****

 

 

   30/4/1975 ông Tư được tự do, hai vợ chồng đùm túm nhau về quê cũ. Mảnh đất có hình bán nguyệt, có vườn cây kiểng của một thời ông bước những bước chân chập chững đầu tiên. Bây giờ nó là trụ sở của HTX nông nghiệp.

    Hàng ngàn mét vuông đất, ao hồ di sản có được từ thời cụ cố,  nói là ông hiến tặng cho Hợp Tác Xã, nhưng thực tế họ cho rằng đất đai này do bọn địa chủ bóc lột mà có, đó là xương máu của nhân dân, là sở hữu của toàn dân, ông không hiến thì họ cũng trưng dụng. Ông hiến tặng cho HTX, mong muốn một mô hình mới trên quê hương. Nhưng sự đời chưa dến độ chín nên không suôn sẻ, HTX từng bước đi lên sự phá sản, đất đai được chuyền từ tay người này sang kẻ khác, bọn trọc phú phất lên từ quỹ đất.

Tên cúng cơm của ông là Ngu, ông có người em trai tên Tu, một cán bộ cấp cao của chính quyền Sài Gòn. Những tên này do cụ nội, cụ cử nhiều chữ đã lựa trông bồ chữ của mình để đặt tên cho các cháu yêu. Ngụ ý thâm trầm của cụ để bây giờ người ta nghĩ chệch đi!

  Bây giờ ông theo nghề cũ của bà Thanh của mươi năm về trước. Trong những đêm trăng thanh vắng, trăng của mùa gọi cá, tình yêu tuổi già lại phập phồng trong lồng ngực. Đôi lúc buồn chán ông học đòi làm người Hiền, học cách sống bi hùng của Khuất Nguyên xỏa tóc bên bờ sông Mịch La mà cay cú với đời. Nhưng dòng sông quê ông nó như sợi chỉ trong lòng bàn tay khó dìm ông chết được nên cứ sống. Và đêm đêm,chiếc thuyền nan, dăm ba tấm lưới sông mỏng mảnh,tiếng cắc cụp cắc cụp xua đàn cá chạy năm nảo năm nào lại vang lên từ đầu hôm đến sương mai còn bảng lảng.

 

*****

    Con gái ông có tham vọng được vào làm việc ở Sài Gòn, lúc đó cô có điều kiện chăm sóc tuổi già ông. Nhưng cô có hiểu cho ông,quê hương này có bao nhiêu vị ngọt bùi cay đắng cứ âm thầm chảy trong tận cùng huyết quản, cái đòn gánh miền trung còn bao nhiêu điều khốn khó, mùa nắng ngọn nam lào thổi như muối xát vào da,mùa mưa bão tố mịt mùng. Dù vậy, ông không thể nào dứt bỏ mảnh đất này mà đi được. Lũ trẻ bấy giờ cũng giống như ông xưa, xông xáo trên mọi nẻo đường gió bụi, rồi một lúc nào đó, chợt nghĩ về quê xưa, lối cũ tìm về.

Những buổi chiều rảnh rỗi, hai chúng tôi khề khà bên chén trà đậm, hoặc cao hứng có món nào tươi, ông Tư cùng tôi nhâm nhi, sưởi ấm nhau bằng hương vị quê nhà .

 

NGUYỄN THANH SƠN

Bến Đò Xứ 2002-2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 1485)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 2288)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 2261)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 4698)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 5537)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
05 Tháng Ba 20248:43 CH(Xem: 1215)
Em là sen Hồng thắm / Ngát hồn anh chiêm bao / Đêm dịu dàng xanh thẫm / Sen cười rất ngọt ngào
24 Tháng Hai 20242:39 CH(Xem: 2507)
Mà thơ. chấm. tới phẩy, nào / Dụi mắt. cắm một ngọn sào du dương / Không dưng / nghe một nạm buồn / Hai tay bụm lại / đầu nguồn thiết tha / Suối rất mệt giữa khe già / Tinh anh của đá / ném / xa / đường gần
14 Tháng Hai 20241:28 SA(Xem: 1798)
Tôi đưa tay gõ vào hư ảo / Chân lý mày đang trốn chỗ nào / Hóa ra đen đỏ hai màu áo / Chỉ để làm trò chơi khó nhau
14 Tháng Hai 20241:15 SA(Xem: 1235)
Này anh bạn – anh thấy không / Sự lộng lẫy không nhường chỗ cho điều gì hài hước / Chỉ tiếng nấc thanh xuân mềm yếu / Trên quảng trường nơi vũ hội đàn ông / Vỡ thành cơn địa chấn.
13 Tháng Hai 202411:57 CH(Xem: 1408)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.