- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Du Tử Lê: 'văn Chương Cứu Rỗi Tôi Trong Những Ngày Luân Lạc…'

22 Tháng Sáu 20184:34 CH(Xem: 26193)
DuTuLe-Triet Tran
Nhà thơ Du Tử Lê -ảnh Triết Trần



Cũng như nhiều thi sĩ trong thời đại mình, thơ ông còn là phóng chiếu một giai đoạn đầy xáo trộn trong đời sống văn hóa của người Việt. Đầu tháng 6-2018, tuyển thơ Khúc Thụy Du của nhà thơ Du Tử Lê ra mắt độc giả trong nước.



NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
: * Thưa nhà thơ Du Tử Lê, thơ của ông đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Trần Duy Đức... phổ nhạc, tạo ra những tình khúc bất hủ.

Nhìn rộng ra, hình như đã có một thời đoạn, trong không gian văn hóa Sài Gòn, nghệ sĩ ở các lĩnh vực khác nhau đã có sự tương tác sáng tạo mật thiết để tạo ra những tác phẩm tinh hoa?

 

DU TỬ LÊ: - Vâng. Đúng như ghi nhận của ông: trong "không gian văn hóa Sài Gòn" một thời, các nghệ sĩ ở nhiều lĩnh vực khác nhau đã tìm đến sáng tác của nhau, hầu hợp thành những tương tác sáng tạo mật thiết. Ngay cả khi họ không hề thân quen, hay ít có cơ hội thường xuyên đi lại với nhau.

ta gọi nhau từ vực, vực khuya.

sớm mai thức, thức xanh: mưa. nắng.

ngọn cỏ đau /từ những thị phi/   

tôi trong tôi rụng: /mùa thay lá/

xót, xót rừng khô. /chim hồ nghi/

.

chia tay /như gió/ quên che mặt

ta gọi nhau từ vực, vực khuya

người trôi, trôi những ngày neo bão

đìu hiu /tôi/  một cõi hư vô.

.

cánh cửa. bức tường. thân thế, muộn.

vết răng găm xuống nỗi buồn, sâu

vai xuôi địa ngục hân hoan, cháy.   

ngọn lửa /vô tình / kiếp, kiếp sau? 

du tử lê

(Calif. Oct. 2017)

 

NVN * Ấy là bởi một "tâm tính văn nghệ" theo "kiểu Sài Gòn" nói chung, hay chỉ là từ những giao cảm, tình thân riêng có giữa những cá nhân?

 

DTL - Như tôi đã nói, cái mà ông gọi là "không gian văn hóa sáng tạo" đó không hề có từ những giao cảm, những tình thân riêng, mà nó là một trong những nét đặc thù của sinh hoạt văn học, nghệ thuật ở miền Nam trước đây.

Tôi thí dụ, trước khi soạn thành ca khúc Ngậm ngùi thơ Huy Cận, nhạc sĩ Phạm Duy không hề quen biết tác giả Lửa thiêng.

Cũng vậy, nhạc sĩ Phạm Đình Chương chưa hề gặp nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công khi gom hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây của Quang Dũng để làm thành ca khúc Đôi mắt người Sơn Tây...

Tuy nhiên, tôi cũng không loại bỏ trường hợp một số người làm thơ thuê (trả tiền) cho nhạc sĩ, để nhạc sĩ đó soạn thành ca khúc thơ của họ, dù giữa hai người có tình thân với nhau hay không.

Nhưng tôi chưa thấy một ca khúc nào ra đời trong hoàn cảnh như vậy được nhiều người biết tới; dù cho nhà thơ kia, sau đó, có bỏ tiền thuê ca sĩ hát hoặc làm thành băng nhạc...

Ít người biết rằng trước khi phổ nhạc bài thơ Khúc Thụy Du của tôi, thì tôi và nhạc sĩ Anh Bằng không hề biết nhau. Tôi từng kể, lần đầu tiên khi nhạc sĩ Anh Bằng tìm tôi, tôi đã hỏi: "Ông là ai, gặp tôi có việc gì không?...", trước khi chúng tôi có được với nhau cái giao tình phải nói là tốt đẹp trong tinh thần tương kính.

Sự kiện này cũng xảy ra cho tôi và nhạc sĩ Trần Duy Đức. Trước năm 1975, Trần Duy Đức ở Pleiku, tôi ở Sài Gòn. Anh đọc thơ tôi trên tạp chí Văn. Không hề liên lạc với nhau, dù qua thư từ. Anh soạn thành ca khúc, những bài thơ anh thích...

Mãi tới năm 1983, ở Cali, anh ấy mới tìm tôi và cho biết đã phổ thành ca khúc khá nhiều bài thơ của tôi, từ trước năm 1975.

 

NVN * 50 bài thơ trong thi tuyển Khúc Thụy Du lần này do ông chủ động chọn lọc, có thể thấy rõ hai nhánh quan trọng trong sự nghiệp thi ca của ông: thơ tình và thơ thế sự. Sự trở lại với người đọc lần này, bằng thi tuyển này, có ý nghĩa thế nào với cá nhân ông?

 

DTL- Thi tuyển Khúc Thụy Du của tôi là một nỗ lực rất đáng ghi nhận trong tình cảnh tế nhị của sinh hoạt văn chương Việt Nam hiện tại, mặc dù trước đây, hai tập thơ của tôi là Giỏ hoa thời mới lớn (2013) và Mẹ về Biển Đông (2017) từng được ấn hành trở lại trong nước.

 

Lại nữa, trong luận án tốt nghiệp văn bằng thạc sĩ bộ môn lý luận phê bình văn học, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, tựa đề "Thơ Du Tử Lê dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật" (mã số 60 22 01 20), tác giả Trần Thị Như Ngọc cũng đã nhấn mạnh rằng cõi thơ Du Tử Lê còn rất nhiều lĩnh vực cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thêm... thì hôm nay thi phẩm Khúc Thụy Du ra đời đem đến cho người đọc khía cạnh thơ thế sự bên cạnh nhánh thơ tình của tôi. Dù thoáng nhẹ, nhưng với tôi, nó vẫn là một gợi mở tiếp cận, rất hữu ích...

Du Tử Lê: Văn chương cứu rỗi tôi trong những ngày luân lạc… - Ảnh 3.

 

 

Bia sách Khúc Thụy Du

Bìa sách Khúc Thụy Du

 

NVN* Là một trong năm nhà thơ hàng đầu của Sài Gòn (bên cạnh Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đức Sơn), và đến nay vẫn còn sáng tác khá đều (đăng tải trên trang dutule.com), xin ông chia sẻ về ý nghĩa của sáng tạo thơ ca trước đây và bây giờ có gì khác biệt, theo trải nghiệm cá nhân?

 

DTL- Tôi quan niệm, mỗi cá nhân trước khi sinh ra đã được Thượng đế chọn trước một nghề nghiệp hay công việc thích hợp. Điều mà chúng ta gọi một cách nôm na là năng khiếu hay "cái khiếu". Cá nhân, tôi nghĩ tôi sống sót được tới ngày hôm nay nhờ tình yêu văn chương.

Trước đây khi còn ở trên quê hương, tôi không thấy văn chương thực sự "cứu rỗi" tôi như những năm tháng tôi luân lạc xứ người... Vì thế, tôi tự nhủ, hãy viết, cứ viết cho tới ngày nào sức khỏe, khả năng không còn cho phép.

 

NVN * "Khả năng", có thể hiểu theo nghĩa nào, thưa ông?

 

DTL- Tôi sẽ nói rõ hơn một chút. Khi dùng hai chữ này, với tôi, nó mang ý nghĩa: ngày nào thấy mình không còn cái gì mới (nội dung hay hình thức) tôi sẽ ngưng viết. Tấm gương lớn nhất của tôi là sức làm việc của nhà thơ R. Tagore (Ấn Độ).

Ở được bền lâu với chữ - nghĩa, tôi thấy hình như tôi "chín" hơn nhiều so với những năm tháng trẻ tuổi.

 

NVN * Nếu có một cuộc đối thoại với người đọc trẻ hôm nay yêu mến thơ ông, điều quan trọng mà ông muốn chia sẻ với họ sau những bài thơ là gì?

 

DTL- Câu nói đầu tiên với họ là lời cảm ơn chân thành của tôi. Tôi sẽ nói rõ hơn với họ rằng, tôi e sẽ không còn có một Du Tử Lê hôm nay nếu không có họ.

Và, một điều nữa, quan trọng không kém là dù ở tuổi nào thì các bạn trẻ của tôi cũng hãy dành một góc (dù nhỏ) tâm hồn cho thi ca. Tại sao? Tại vì thi ca là phần đất tinh thần tốt nhất cho chúng ta nuôi dưỡng những mơ mộng trước cuộc sống thực tế ngày càng khốc liệt, lạnh lùng, tàn nhẫn như hiện nay.

Con người, ngoài nhu cầu vật chất, còn có nhu cầu tinh thần. Chính nhu cầu tinh thần kia cho chúng ta sự khác biệt, rõ ràng, dứt khoát nhất giữa chúng ta và loài vật.

NVN * Cuối cùng, một thi sĩ giàu có về thơ tình, một người sống trong kho tàng tình cảm đầy phong phú - có thể nói gì về tình yêu trong cuộc đời?

DTL - Tình yêu nói chung (không giới hạn trong tình yêu nam nữ), với tôi là một thứ tôn giáo. Thứ tôn giáo mà mỗi chúng ta là giáo chủ của tôn giáo đó. Kẻ giàu có nhất trong nhân loại, theo tôi, không phải là người nhiều tiền của nhất; mà là người có nhiều tình yêu nhất, dành cho đồng loại, thiên nhiên, thú vật.

Bởi vì ngay cả khi bạn giàu có như Bill Gates thì bạn cũng chẳng thể mua chuộc, hối lộ thần chết, để khỏi chết. Và khi chết, bạn cũng chẳng thể mang theo tiền bạc bạn có. Tất cả mọi thứ thuộc về vật chất, bạn đều buộc phải bỏ lại.

Cái bạn bỏ lại tốt đẹp, được mọi người nhớ, nhắc chính là tình yêu mà bạn đã có, đã cho mọi người khi còn sống. Nói khác đi, đó là thứ tiền tệ hay tài - sản - tinh - thần mà ngay thần chết cũng không thể tước, đoạt được của bạn.

NVN * Xin cảm ơn ông.


NGUYỄN VĨNH NGUYÊN *thực hiện

 

Du Tử Lê sinh năm 1942 tại Hà Nam. Ông là tác giả của 70 tập thơ, văn xuôi. Ông học Đại học Văn khoa Sài Gòn, tu nghiệp báo chí tại Indianapolis, Indiana (1969). Giải thưởng Văn chương toàn quốc tại Sài Gòn năm 1973 (tập Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972).

Thập niên 1980-1990, thơ ông xuất hiện trên Los Angeles Times và New York Times. Thơ ông được dịch trong tuyển tập Understanding Vietnam (liên Đại học Berkeley, UCLA, London ấn hành; là sách giáo khoa về văn học Việt Nam cho nhiều đại học tại châu Âu).

Ông là một trong sáu nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20 có thơ dịch trong tuyển tập World Poetry - An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time (W.W. Norton New York, 1998). Ông từng thuyết trình về sáng tạo thơ ca tại một số đại học ở Mỹ, Pháp, Đức và Úc. Ông hiện cư ngụ tại Garden Grove, Nam California (Mỹ).

 

Nguồn:  Tuổi Trẻ Online

https://tuoitre.vn/du-tu-le-van-chuong-cuu-roi-toi-trong-nhung-ngay-luan-lac-20180622101448293.htm

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33834)
R ồi cũng đến lúc không còn để nói câu tiên tri nở trắng cánh phù dung rồi cũng đến lúc không còn để đợi khúc tình xa rớt lại giữa lưng chừng
22 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33553)
B ạn tôi dậy cho tôi viết ca khúc Sau 3 tuần bắt tôi viết 8 tiểu đoạn Tôi ghi note cho từng tiểu đoạn Tất cả đều không có gì sai Bạn dạo những note kia bằng dương cầm Tôi nghe những âm thanh là lạ Bạn nói với tôi  Cái này không phải nhạc Hiền ơi…
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31730)
MKDSNM được phát hành vào một thời điểm rất ý nghĩa, ngay sau Hội nghị Thượng Đỉnh Mekong II / MRC Summit II vừa diễn ra tại Thành Phố Sài Gòn ngày 5 tháng 4, 2014. Hội nghị này đã được giới quan sát quốc tế và các nhà hoạt động môi sinh đánh giá như một thất bại về phía Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ sự phát triển bền vững hệ sinh thái Sông Mekong, và ĐBSCL, cũng là mạch sống của ngót 70 triệu cư dân sống trong lưu vực.
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 36233)
K hi về đã lạnh vườn xưa Chỉ nghe giá rét sang mùa mà thôi Giờ em heo hút phương trời Biết chăng đây có một người nhớ thương
19 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34576)
Q ua một loạt truyện gởi đến độc giả Hợp Lưu gần như liêu trai và siêu thực, Uyên Lê tâm sự: “ Em chỉ thích viết về quê hương này, về Việt nam, có những điều đẹp như hoang đường ... Chỉ có yêu thật lòng người ta mới thấy cái đẹp của người mình yêu. Em viết về Phan Thiết và nước mắm rất nhiều, em cho đó là cái đẹp và tình! Em cũng viết nhiều về Huế… em không biết HL có thích chất tự tình quê hương đó của em không…” Chúng tôi xin gởi đến quí bạn đọc một bài viết về Phan Thiết của tác giả Uyên Lê.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37188)
C hỉ còn một góc phố Và một ngã tư chơ vơ không người chờ đợi Em đi qua hôm nào anh đâu biết Một nửa tình buồn lạc nhịp ngoài đêm
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 32147)
Đ ồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37641)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34572)
T ôi mãi bước trên con đường uốn cong chữ S móc nhau nối xích lại gần để biến dạng một hình lưỡi câu đu đưa trước cuống họng khát giữa tiếng rền than
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35121)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.