- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

PHÂN ƯU

10 Tháng Ba 20161:54 SA(Xem: 23537)
NGUYEN NGOC BICH

 

 Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích

Cựu giám đốc Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do (RFA)

Đã mệnh chung trên chuyến bay từ thủ đô Washington DC đi Manila, Philippines

vào ngày 2 Tháng Ba, 2016.

Hưởng thọ 79 tuổi.

 

Tháng Tư năm 1975, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích rời quê nhà sang Hoa Kỳ sống tại Virginia cho tới khi ông vĩnh viễn ra đi.
Trong suốt thời gian hơn 40 năm qua, ông kiên trì đóng góp trong nhiều lãnh vực văn hóa, giáo dục, đấu tranh của người Việt Quốc Gia hải ngoại.

Thời Tổng thống George W.H Bush lãnh đạo Tòa Bạch Ốc, Giáo sư Bích được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Song Ngữ của Bộ Giáo Dục Liên Bang. Ông cũng từng là giám đốc của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do (RFA) từ ngày đài phát thanh chương trình đầu tiên về Việt Nam vào tháng hai năm 1997. Kể từ ngày về hưu rời khỏi RFA, ông vẫn giữ chức Chủ tịch ‘Nghị Hội Toàn Quốc Của Người Việt tại Hoa Kỳ’ và tiếp tục các trước tác văn học, dịch thuật.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từ trần, để lại một di sản đồ sộ những đóng góp của ông trong rất nhiều lãnh vực. Và ông cũng để lại tình cảm yêu mến trong lòng nhiều người Việt trong và ngoài nước.

Tạp Chí Hợp Lưu và văn thi hữu

xin thành kính phân ưu cùng tang quyến.

 

 

TIỀU SỬ GS NGUYỄN NGỌC BÍCH:

nguồn: cothommagazine.com

Sinh 1937 ở Hà-nội, tiểu-học ở Vĩnh-yên, trung-học ở Chasseloup Laubat, Saigon, học-bổng Fulbright ở Princeton, Mỹ (B.A. Chính-trị-học, 1958), đại-học-viện ở Columbia University, New York (Á-đông-học, Văn-học cổ-điển Nhật), President’s Fellowship sang Nhật (Kyōdai, Đại-học Kyoto, 1962-63) để thu thập tài-liệu cho một luận-án tiến-sĩ, M.A.T. về Giáo-dục Song-ngữ và Ngôn-ngữ-học lịch-sử (Georgetown University, 1985). Có theo học một số khóa học ngắn ở Đại-học Vienna và Munich (tiếng Đức), Madrid (tiếng Y-pha-nho), USDA Graduate School (tiếng Trung và tiếng Nga). Nhà giáo, đã từng dạy học ở Viện Đại-học Cửu Long, Sài-gòn (“Văn-minh Văn-hóa VN,” “Việt-văn Diễn trình”) và Khoa Chính-trị Kinh-doanh Đại-học Đà Lạt ở Sài-gòn (“Chính-trị Nhập-môn” và “Miền Bắc CS,” dạy chung với Ô. Douglas Pike) từ năm 1972 đến 1975. Sang Mỹ đã đảm nhiệm các môn “Văn-học VN” và “Văn-minh Văn-hóa VN” ở George Mason University (1979-1989), “Nhập-môn Triết-học Đông-phương” (dạy chung với Tiến-sĩ Đào Thị Hợi) ở Trinity College (1980-82), và huấn luyện giáo-sư ở Trung-tâm Giáo-dục Song-ngữ thuộc Viện Đại-học Georgetown (Georgetown University Bilingual Education Service Center, tắt là GU-BESC, thuộc SLL, tức School of Languages and Linguistics) từ năm 1980 đến 1986.

Sự-nghiệp:

Dịch-thuật: A Thousand Years of Vietnamese Poetry (Một nghìn năm thi ca VN, Alfred A. Knopf, 1975), War & Exile: A Vietnamese Anthology (chủ-biên, Chiến-tranh và Lưu đày: Tuyển-tập văn thơ VN hiện-đại, Trung-tâm Văn-bút Miền Đông Hoa-kỳ, 1989, để đi dự Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Montreal, Canada, tháng 9-1989), Trường Ca Lời Mẹ Ru / A Mother’s Lullaby của Trương Anh Thụy (dịch sang tiếng Anh, Cành Nam, 1989), Hoa Địa Ngục / Flowers of Hell và Hạt Máu Thơ / Blood Seeds Become Poetry (dịch thơ Nguyễn Chí Thiện, Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 1996), From Enemy to Friend (dịch “Mây Mù Thế Kỷ” của Bùi Tín, Naval Institute Press, Annapolis, MD, 2004), Cung Oán Ngâm Khúc / Complaints of an Odalisque (dịch và giới-thiệu thơ Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều, East Coast Vietnamese Publishers Consortium, 2006), Hỏa Lò / Hanoi Hilton Stories (dịch với người khác 3/7 truyện của Nguyễn Chí Thiện, Yale Southeast Asian Studies, 2007), Zenith (dịch chung với Hòa và Stephen B. Young “Đỉnh Cao Chói Lọi” của Dương Thu Hương, Viking, 2012).

Biên khảo: North Vietnam: Backtracking on Socialism (Vietnam Council on Foreign Relations, Saigon, 1971), giới-thiệu về thơ VN trong Nguyễn Đình Hòa, chủ-biên, Some Aspects of Vietnamese Culture (Southern Illinois University, Carbondale, IL, 1972), An Annotated Atlas of the Republic of Vietnam (Embassy of Vietnam, Washington DC, 1973), Hồ Xuân Hương: Tác-phẩm (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2000), Omar Khayyam – Rubaiyat: Thơ và Đời (dịch và giới-thiệu thơ Ba-tư, Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2002), Tet, the Vietnamese New Year (East Coast Vietnamese Publishers Consortium, 2004), Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn (1 trong 7 soạn-giả, Viện Việt Học, 2009), Lưu Hương Ký (thơ chữ Nôm và chữ Hán của Hồ Xuân Hương, Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2011).

Mỹ-thuật, âm-nhạc: Vietnamese Architecture (dịch từ tiếng Pháp của Nguyễn Năng Đắc và Nguyễn Quang Nhạc, Embassy of Vietnam, Washington DC, 1970), 15 Ca-khúc mừng Giáng Sinh (National Center for Vietnamese Resettlement, 1975), Ngục Ca / Prison Songs (thơ Nguyễn Chí Thiện do Phạm Duy phổ nhạc, NNB làm lời tiếng Anh hát được, VICANA, 1982), dịch một số bài trong Trần Cao Lĩnh, Vietnam, My Country Forever (nhiếp ảnh nghệ-thuật, Aide à l’Enfance du Viet Nam, Paris, 1984), tác-giả hai bài về huyền-thoại VN và thơ VN trong Vietnam: Essays on History, Culture and Society (New York: The Asia Society, 1985), dịch danh-mục hội-họa VN trong An Ocean Apart: Contemporary Vietnamese Art from the United States and Vietnam (“Nghìn Trùng Xa Cách,” Washington, DC: Smithsonian Institution Traveling Exhibit Service, 1995), dịch các tiểu-luận về mỹ-thuật trong Thái Tuấn: Selected Paintings and Essays (Garden Grove, CA: VAALA, 1996).

Góp mục từ-điển:Southeast Asian Literature,” trong Funk and Wagnalls New International Yearbook 1965, “Southeast Asia,” trong The Oxford Companion to Women’s Writings in the United States, “Nguyen Chi Thien” trong Mark Wilhardt, Who’s Who in Twentieth-century World Poetry (Routledge, London, 2002).

Góp mặt trong các tuyển-tập: Dịch thơ VN trong Dorothy B. Shimers (chủ-biên, Voices of Modern Asia, New York: New American Library, 1973), có gần 40 bài thơ Việt trong Katharine Washburn và John S. Major, World Poetry, An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time (Thơ Thế-giới, một tuyển-tập từ thượng-cổ đến ngày nay, New York: Norton, 1998), và có thơ VN dịch trong khoảng 40 sách giáo-khoa Mỹ.

Người ta nói gì về NNB?
Contemporary Authors, New Revision Series, Vol 15 (Gale Research Company, 1979 and 1985 editions).
Có mục riêng trong Lê Bảo Hoàng, Tác-giả Việt-Nam / Vietnamese Authors (Sóng Văn, Montreal, Canada, 2005) và được giới-thiệu trong các sách của Hồ Trường An như Giữa Đất Trời Giao Hưởng (Gió Văn, 2008), Núi Cao Vực Thẳm (Tiếng Quê Hương, 2010), Trên Nẻo Đường Nắng Tới (Gió Văn, 2013).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Tư 20154:54 CH(Xem: 34048)
Người đàn ông cán sự xã hội rất nhanh nhẹn và hoạt bát, thao thao bất tuyệt với giọng Bắc nhưng vẫn là âm gốc Huế. Anh dí dỏm kết luận bài học công dân đầu tiên: "Xin nhớ cho đây không còn là ở Việt Nam nữa, quý vị bây giờ đang ở trên đất Hoa Kỳ, đã có hoàn toàn tự do, kể cả tự do phê bình tổng thống hay quốc hội, nhưng - anh ta ngưng lại một chút như để tự tán thưởng bằng một nụ cười riêng thú vị: nhưng quý vị sẽ không có tự do trốn thuế. Trốn thuế ở Mỹ thì chỉ có ở tù và được coi là tội nặng nhất..."
09 Tháng Tư 20154:07 CH(Xem: 32280)
Chúng ta đang trên đường đi về phía những ước mơ Nên câu thơ mãi xanh tươi dưới vòm trời khái niệm Mang theo hành trang tình yêu Nào dám nghĩ đó là viên kẹo ngậm Nên sự chỉ định nào cũng đều tối nghĩa phải không em?
09 Tháng Tư 20153:54 SA(Xem: 32824)
Tôi ngồi nhìn thằng bạn chơi games trong căn phòng của nó, một buổi trưa nóng bức, hơi nóng hầm hập nằm bên ngoài ô cửa kính đóng chặt, khung cửa thỉnh thoảng rung lên vì gió. Trong phòng máy lạnh chạy đều đều mang theo một làn hơi mát có tác dụng phụ khiến người ta khô mũi. Ngày chủ nhật, hai thằng con trai chẳng có gì làm ngoài việc nhìn nhau chơi games.
09 Tháng Tư 20153:19 SA(Xem: 34722)
Ới cha ơi, sao nhà cao cửa rộng cha không ở, cha lại bỏ con bỏ cháu mà đi, ới cha ơi! - Ới cha ơi chúng con ăn ở với cha như bát nước đầy sao cha lỡ bỏ chúng con mà đi cha ơi! Phướn, người con thứ hai phủ phục xuống quan tài cha khóc nức nở, tiếng khóc không lâm li nhưng cũng đủ làm cho lòng người đến viếng đám ma xao động mà thêm thương tiếc cho ông Phượng
09 Tháng Tư 20152:57 SA(Xem: 31610)
Dì Cúc nê cái bụng bầu bảy tháng lặt lè chăm vườn hoa cúc trắng. Chỉ có Dì mới được sờ vào hoa, bất kể ngày đau ốm. Hai hàng hoa cúc trắng tạo thành lối đi zích zắc, rắc rối như cuộc đời của dì, chạy từ ngõ tận hiên nhà. Bây giờ chòm xóm đã quen dần cái bụng lúp xúp của dì. Dăm tháng trước, tin dì có bầu chấn động cả thị trấn nhỏ bé có duy nhất một con lộ. Dì không có chồng lẫn bạn trai mà có bầu...
09 Tháng Tư 20152:43 SA(Xem: 32331)
hắn chờ vờ chàng vàng một hồi cũng nặn ra hình tượng những con chữ. mặt. cắt không còn một hột máu
09 Tháng Tư 20152:34 SA(Xem: 34143)
Nếu cụ Nam Cao còn sống, cụ sẽ bình là đôi lứa xứng đôi. Ở nước Việt mình bây giờ, đại gia và người đẹp chân dài luôn là một cặp phạm trù gắn bó hữu cơ. Không phân biệt đâu là chủ thể, đâu là khách thể.
26 Tháng Ba 20153:34 SA(Xem: 32648)
Ngôi nhà ấy tuổi đã hơn 100 năm, đó là tất cả những ký ức thuộc về người xưa: ông cố, ông nội và ba hắn. Nơi ấy vẫn còn lưu giữ những kỷ niệm phai mòn như con ngựa gỗ cũ được ông nội gọt đẽo từ thứ gỗ gụ đen cứng. Thời gian đã đã phủ một lớp bụi mờ trắng mỏng trên những đường vân gỗ, từng cái kèo cột, cả bộ ngựa ba mảnh đặt cạnh gian giữa nhà trên.
24 Tháng Ba 201510:37 CH(Xem: 32443)
Những bài thơ không yêu nhau Giấu cái nguýt dài trong mắt nhìn hờ hững Bài thơ tương tư vì sao Quên mất mặt đất mình đang đứng Triệu năm lạc lối về
24 Tháng Ba 201510:10 CH(Xem: 30661)
Kỷ niệm đã nói dối Khéo léo uốn cong lịch sử Những phiên bản nằm Trên trục xoay trái đất Chờ sao chổi chứng thực về lời ngoại cảm trên những đốt xương rùa