- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

KHỞI HÀNH

21 Tháng Bảy 20154:54 CH(Xem: 28163)

ME-BW
Hương của mẹ- Ảnh Internet

 

 

Mây thổi tóc chỉ vừa ráo rồi ra cửa.  Người đưa thư đã đi sau khi gõ mạnh một tiếng khô khan, hô một tiếng giao bưu kiện.  Trên tấm thảm chùi chân trước cửa, gói hàng trong giấy nâu nằm chơ vơ.  Mây cúi xuống, hộp chữ nhật vuông vức nhưng mỏng và nhẹ, nét chữ Thiên Sơn vẫn vung vẩy như xưa.

 

Mây trở vào phòng, chợt ngạc nhiên nhận ra căn phòng đầy mùi thơm mát của dầu xả tóc, của xà bông, mùi trong tươi của một buổi sáng vắng lặng.  Giờ này hầu hết mọi người chôn mình trong công việc nơi sở làm, khiến ngày nghỉ của Mây như thêm chút giá trị của ngày thong thả.  Mây đặt gói quà xuống định tìm kéo rồi một ý nghĩ bật ra trong óc, Mây chạy qua phòng Má.

 

Căn phòng im như một góc quá khứ, dù Má chỉ mới rời nhà chưa quá một tuần.  Mây ngồi lên chiếc giường đôi, chỗ Má vẫn nằm.  Tấm chăn phủ giường xô lệch, chiếc xe đẩy tay của Má đứng xéo góc với tủ đựng quần áo, soi bóng cô đơn trong tấm gương.  Mây hít vào ngực, mùi dầu kinh niên, mùi son phấn – a ha, Mây chưa bao giờ ngửi thấy mùi son phấn của chính mình, nhưng không thấy đâu là mùi của Má.  Mây nằm xuống, kéo tấm chăn phủ lên mình.  Mây nghĩ mình sẽ thấy mùi của Má khi quấn mình vào món vật dụng hằng ngày ấy, nhưng vẫn không có mùi gì đặc biệt hơn.  Mây quay mặt úp xuống gối, Mây trùm mền qua đầu.  Bây giờ Mây nhớ ra:

người Má rất khô ráo, mấy mươi năm cận kề, chưa bao giờ Mây thấy Má đổ mồ hôi dù lúc nóng bức nhất ở Sài gòn, dù những ngày mưa nắng dãi dầu ở sạp hàng Lê thánh Tôn.  Giờ này Má làm gì ở nhà thương?  Lang thang vòng vòng tìm lối về?  Tán với bà Sue lẩy bẩy bằng cái vốn tiếng Mỹ ăn đong?  Kêu ý tá mượn hai chục đô để bắt taxi về nhà?  Hình ảnh Má gò lưng run run mò mẫm ở một nơi đầy người xa lạ với cái vẻ cam chịu làm Mây ứa nước mắt, Mây chợt nhận ra, cái gò lưng cam chịu ấy không chỉ có từ lúc đưa Má vào nhà thương mà cái cam chịu ấy đã có rất lâu đời, rất kinh niên, còn kinh niên hơn cả mùi dầu gió mà chỉ bây giờ Mây mới nhận thấy.  Má, Má, nào con muốn đưa Má ra khỏi nhà…

 

Khi cô cán sự đề nghị đưa Má vào trung tâm người già, cô đã hờ trước rằng nếu Mây có đổi ý cũng không sao vì cô biết đó là một quyết định khó khăn mà Mây dường chưa sẵn sàng chấp nhận.  Mây đã đem hết khôn ngoan lý trí để quyết định một điều cho là hợp lý.  Hai ngày đầu Má rời nhà, Mây vẫn giật mình thức lúc 2, 3 giờ sáng tưởng như mình nghe tiếng cọ quẹt, tiếng gõ cửa, hay tiếng nói lí rí gì đó… rồi khi đã tỉnh hẳn chỉ nghe tiếng ngáy của anh Tư đều đều như tiếng rít thuốc lào của ông ngoại hồi xưa.  Mây đã nằm thao thức trong đêm, mắt rũ xuống vì buồn ngủ, người bã ra vì mệt, nhưng bộ óc thì xoay mòng như ngựa qua muôn vạn núi đồi với muôn vạn ý nghĩ vụt biến vụt hiện không làm sao níu được ý nghĩ gì. 

 

Mỗi chiều Mây vào, khi thì tìm thấy Má ở phòng xem TV, khi thì thấy Má ngồi ở sofa ngay lối ra vườn.  Má nhìn mặt Mây mừng rỡ ôm chặt, kêu với mọi người chung quanh “my daughter, my daughter…”  Mây đưa Má ra vườn ngồi chơi mươi phút, rồi dẫn vào phòng ăn xí chỗ nơi cái bàn thấp cho vừa tầm của Má.  Má ăn ít vì không thấy đường mà gắp thức ăn.  Mây thường ép thêm muỗng này muỗng nọ, và Má chỉ mới vài ngày nơi chốn lạ đã rất ngoan ngoãn ngồi im trong cái hỗn loạn của giờ ăn.  Ông Joe mới hôm qua còn nháy mắt cặp mắt xanh biếc thơ ngây với Mây thì hôm nay đã long sòng sọc rượt hai y tá chạy vòng vòng.  Ông giáo sư lại nghiêm chỉnh rè rè chầm chậm cãi vả  hay phân bua với bà bồ (hay vợ) một điều gì đó.  Sue lẩy bẩy liên tục bốc thức ăn đưa vào miệng bằng bàn tay run như tay chơi vĩ cầm đang kéo những nhịp 32, trong khi em béo bên cạnh thò tay lấy hộp sữa của Sue uống nốt theo với chén súp đòi thêm…  Má, Má sống làm sao với cái đời hỗn loạn thờ ơ ấy?  Khi xong bữa Mây từ giã để Má lại nơi bàn ăn vì không dám nhìn thấy Má gù gù lang thang vòng vòng ở cái chốn rặt người ta…  Chiều  tháng Bảy trời vẫn sáng lóa, Mây lái xe qua từng ngã tư nhạt nhòa, về lại căn nhà đã im những lạch cạch lục đục, đã không còn những vật dụng cất lung tung sai chỗ, sàn nhà không còn đầy những vết bùn, vết thức uống, vụn thức ăn...  Một giờ thăm Má là một giờ xứng đáng 60 phút 3600 giây, Mây lê thân vào nhà chả thiết gì nữa cuộc sống, chả còn muốn biết ngày mai.  Mãi hôm nay Mây mới vào phòng Má để nhận ra dường đã có một lớp bụi trong phủ lên mọi thứ, tựa như căn phòng đã lạnh vắng hơi người từ một kiếp nào xa.  Má, Má có còn về lại chốn này?

 

 

 

Thiên Sơn tặng Mây một bức tranh, đúng hơn là một bức cưa lọng bằng gỗ thông mỏng độ nửa phân, dài rộng cỡ một tấm liễn dọc, hình hai đứa trẻ súng sính trong quần áo cổ truyền _ cô bé tóc đuôi gà áo tứ thân, cậu trai áo dài khăn đóng, hai đứa chung tay cầm một chùm đào.  Mây ngạc nhiên nó còn nhớ sở thích của Mây những ngày tháng mới vào đại học.  Thư Thiên Sơn không dài, chỉ nói bâng quơ nếp sống và một bức hình.  Nó ngồi một mình lọt thỏm trong ghế bành chỉ thấy chõm tóc, mặt hướng ra cửa sổ.  Mọi thứ trong bức hình như úa tàn héo hắt, chỉ khuôn cửa sổ hắt ánh nắng vàng rực rỡ - Sơn nói nhớ nhà.  Nhà, cái quê nhà ấy sáng rực như nắng hay chỉ là lòng yêu cuộc sống của Thiên Sơn chiếu lóng lánh rực rỡ lên tất cả những gì mà nó mến yêu?  Thiên Sơn nói hãy yêu đời, đừng bịn rịn cùng quá khứ.  Quá khứ, không phải đó chính là giọt nước mắt của Mây bây giờ trước mảnh lưng gò cam chịu của Má hay sao?  Mây buồn rầu nhận ra, dẫu Mây thật gần với Thiên Sơn trong tình bạn, đời của 2 người như cách nhau mấy đại dương.  Mây đã đi xa đi trước hết mấy quãng đời trong khi Thiên Sơn dường chỉ mới bắt đầu thực sống.

 

Mây ngậm ngùi.  Đã mấy năm rồi quẩn quanh chỉ toàn nỗi chết, của một người, rồi một người, lại người nữa, rồi sẽ đến một người…  Nhiều lúc Mây thấy mình lang thang nơi nghĩa trang cứ như là đi thăm cơ ngơi của tuổi già, cứ làm như chốn đó là chốn bình nguyên thảo mộc cho một phút tìm thư thái.  Dẫu thấy vô lý nhưng Mây không thể chối cái cảm nhận bình an mỗi khi đứng dưới vòm cây trong nghĩa trang nhìn ra bãi cỏ ngát xanh và những tấm bia đen ẩn hiện trên mặt cỏ, một nỗi bình yên không tên tuổi không nông sâu, nỗi bình yên trắng xóa như mây êm đềm như nước, nỗi bình yên như “đã có trước vô cùng, và hằng có, và đời đời chẳng cùng.”  Những lúc đó Mây nhớ tới những gì người ta bàn về cái chết -  hoặc nó là một đối nghịch của cái sống, hoặc nó như một đoạn tiếp nối trên sợi dây thời gian.  Có kẻ dỗ rằng người ta sinh ra chỉ để chết, và hùng hục sống.  Có ông hào sảng đòi đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, chả biết hết đêm rồi thì ông sẽ làm gì.  Nhưng cũng có người thầm lặng sống cái chết của chính mình tự những năm tháng thiếu thời mãi cho đến bây giờ, trong tuổi già bóng xế ngồi lặng bên khung cửa nhìn ánh trời với đôi tròng mờ đục chuyện nhân gian.  Mây đã từng mường tượng sự chết như từng hạt cát đỏ trộn với sự sống là những hạt xanh dương bên trong chiếc đồng hồ cát đều đều chầm chậm rớt hạt.  Xanh hay đỏ, rơi xuống rồi là hết.  Đến khi va vào khung cửa sổ mờ đục ấy  Mây đã ngạc nhiên rồi dần ngấm một nỗi đau lòng. 

 

Ở một khoảng nào đó trong cuộc sống, chúng ta mỗi người bắt đầu cái chết của mình dẫu ý thức hay không, dẫu quyết lòng hay không.  Những bước lạc loài của Mây trong nghĩa trang có phải là những bước khởi đầu cho cuộc chết?  Mây sẽ về ngự nơi đây hay tro cốt sẽ biến tan trong bọt nước?  Và Má, chỉ mới 5, 3 ngày vào chốn lạ Má dường đã mịt mờ quên hết mọi sân si phiền muộn, có phải Má đang bước vào khoảng sương núi chập chùng, tựa như K. của Đời Không Tâm Điểm?  Mây đau đớn nghĩ đến giấc mơ mấy năm trước, khi quì trước bàn thờ của Má.  Má, làm sao để con bước cùng Má những bước chân quờ quạng nhạt nhòa, để Má không phải cô đơn lạc vào sương núi?  Con muốn đi với Má chặng đường gian nan nhất của kiếp người, con muốn Má thanh thản bình yên biết có một tình thương quấn quyện chở che tựa những năm con mới ra đời Má đã quấn quyện chở che con.  Con có thể đổi điều gì để đi cùng Má đoạn đường này? 

 

Mây cầm lá thư ngắn của Thiên Sơn nằm hẳn xuống giường của Má.  Tấm nệm hơi trũng xuống theo sức nặng, nhưng chỗ Má nằm không còn dấu ấn của thân người cũ.  Mây muốn nói một lời cảm tạ cho tình bạn ân cần _ những sớm mai dậy khi Sơn gửi cho Mây một lời nhắn, khi đêm về một lời thăm hỏi trước giấc ngủ, cái tình nghĩ đến nhau đầu hôm cuối buổi làm ấm một cuộc đời gian nan, nhưng với Mây giờ đây mọi sự chỉ là sương núi _ mỗi giọt dẫu cay đắng dẫu mặn mà dẫu được lắng đọng hay bị quên lãng thờ ơ, tất cả đều chỉ mờ đục như khung cửa sổ của một người đã sớm cuộc khởi hành.  Bây giờ Má đã khởi hành và Mây cũng tiếp bước cuộc đi vào sương núi.

 

 

Lưu Na

07-21-2015

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 65746)
Đ àn chim với những con Rose breasted màu nâu nhạt, ngực đỏ;con Western King with fledgling cũng màu nâu nhưng cái cái ngực vàng hườm; con Red headed woodpecker mình gọi là chim gõ kiến có cái đầu màu đỏ, con Indigo Bunting tròn như con sáo quê nhà, nhưng lại xanh biếc như da trời. Tất cả bọn chúng, mỗi buổi sáng, theo nhau về ríu rít trong vườn nhà tôi...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 54257)
N guyễn Phi Khanh sinh năm 1355 và mất năm 1428[1] (có thuyết nói ông sinh năm 1336, mất năm 1408[2]), quê ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây (có thuyết nói ông còn có quê thứ hai ở Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương). Ông tên thật là Nguyễn Ứng Long, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống võ tướng. Nhưng ông lại là người say mê văn chương...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 63418)
Tôi chìm vào một giấc mơ, giấc mơ có những sợi dây bé xíu đan vào nhau thành những mắt lưới. Tôi đi tìm một thế giới, nỗi đau oán thù bị xóa bỏ, chỉ còn tôi với thế giới ấy.
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 60120)
B ài này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất, luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 ...
06 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 70229)
Bây giờ đã bước sang một ngày khác một ngày như và không như mọi ngày không còn nợ nần nào để tính sổ không còn niềm vui nào để cho đi hay giữ lại nỗi buồn...
11 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 93528)
Cuộc Họp Báo Nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền - 10/12/2012
10 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 90936)
S au hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 94763)
Một trong những vấn nạn, nếu không phải nghi án, lịch sử cận đại còn gây nhiều tranh luận là vấn đề âm mưu ve vãn [flirtation] Cộng Sản Hà Nội của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1897-1963) trong hai năm 1962-1963. Nhiều học giả thế giới đã cố gắng đưa ra những giải thích về vấn đề này. Người cho rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ [no longer be rational] nữa trước áp lực Mỹ. (1) Người cho rằng họ Ngô chỉ muốn blackmail hay chơi một ván bài poker với Mỹ. (2) Người cho rằng họ Ngô thực sự muốn nói chuyện với miền Bắc, (3) và nếu không có cuộc đảo chính 1/11/1963, Cộng Sản đã chiếm miền Nam vào cuối năm 1963.
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 93462)
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, các viên chức VNCH liên tục thúc dục Pháp can thiệp và yểm trợ. Ngày 21/12/1961, Đại sứ Phạm Khắc Hy gửi thư cho Charles Lucet, ngỏ ý muốn liên lạc với Pháp. Hơn nửa tháng sau, ngày 7/1/1962, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu gặp đại diện Pháp, xác nhận ý muốn liên lạc. Trương Vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc Hội, cũng tiết lộ với giới ngoại giao Pháp ở Sài Gòn là Nhu muốn Pháp tái khẳng định lập trường, vì Sài Gòn có cảm tưởng Paris đang nghiêng dần về phía Hà Nội.( 152)
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 98836)
Phần II II. NHỮNG THẾ LỰC CHI PHỐI BÊN NGOÀI: Chính sách hòa hoãn Mỹ-Nga, cộng với sự va chạm cá nhân với các viên chức Mỹ, cũng khiến họ Ngô tìm cách nới rộng hơn sự kềm tỏa của Mỹ. Phong trào chính trị đang lên trong thời điểm này là phi-liên-kết, và trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga, do Pháp và India đi hàng đầu. Ngoài ra, Trung Cộng thường tuyên bố theo đuổi chính sách “sống chung hòa bình” [peaceful co-existence], trong khi Mao đưa ra “thuyết” Thế Giới Thứ Ba, tức thế giới của các nước nghèo và cách mạng giải phóng khỏi ảnh hưởng các cường quốc.