- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

TỪ NHÂN VĂN-GIAI PHẨM ĐẾN VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP

23 Tháng Năm 20153:54 SA(Xem: 35245)

VuAnNhanVanGiaiPham

Hội Nhà Văn Việt Nam TP Hồ  Chí  Minh - chắc được chỉ  đạo từ những  cấp cao hơn  như Ban Tuyên Giáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), rồi Hội Nhà Văn Việt Nam ( HNVVN) -  mới đây gạch tên 9 hội viên không cho bầu làm đại biểu tham dự Đại Hội Nhà Văn lần IX sẽ nhóm họp ở Hà Nội vào tháng 7 năm nay.  Những hội viên bị gạch tên[i] đều là thành viên của Ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập (BVĐVĐĐL). Tập hợp này bị thế quyền gán cho là ‘’ ám muội’’, là ‘’diễn biến’’, tự tung tự tác tìm cách thoát trói buộc những định chế chính trị xưa nay vốn là rào cản tự do sáng tác và tự do ngôn luận.Khi được chỉđạo chỉ nhằm phục vụ chính trị, văn học là thứ văn học minh họa kiểu người tốt việc tốt, lu loa tuyên truyền tô hồng, đẩy người  viết vào cách thế nhìn nghiêng với một mắt, thậm chí nhắm tịt cả hai mắt, mô tả cho ‘’phải đạo’’ một thứ hiện thực xã hội tô vẽ, hoang tưởng, đậm mùi duy ý chí.  Loại văn học văn chương có lãnh đạo chính trịnày khiến một  nhà thơ trẻ vào đầu những  năm 80 đau xót kêu:

Tụi nó cưỡi lên lưng anh làm ngựa

khiến mông anh trổ đuôi, còn gáy mọc ra bờm

anh vừa hí vừa vặn mình nôn mửa

một  đống lạ lùng nửa áo nửa cơm.

Tụi nó lại treo trước đầu anh một giỏ hoa thơm

có mùi văn  chương có hương nghệ thuật

anh nghiến răng  nhai một cách cuống cuồng

đến khi ợ mới biết mồm tàn tật...

Nền văn chương minh họa và phải đạo bén rễ sau thời Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) kéo dài hơn hai mươi năm bỗng hóa thân vào thời đầu Đổi Mới năm 87- 89 với những tác phẩm vượt trội. Xin tri ân tướng Trần Độ. Xin cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc. Cả hai vị này đã phà duỡng khí hồi sinh vào thây ma của thứ văn chươngvô hồn rập khuôn chính sách văn hóa Liên-Xô đã tạo ra những Quần Đảo Ngục Tù ( goulag) rồi còn lại  kẹp thêm tính Mao-nhiều &Mao-ít hậu phong kiến đội tên giả là xã hội chủ nghĩa. Thình lình, chúng ta có hàng loạt tác phẩm đúng nghĩa với những Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương thu Hương, Nguyễn Quang Lập, Nhật Tuấn...Người đọc nay đua nhau  mua báo Văn Nghệ vốn xưa ế ẩm, tìm đọc Tướng Về Hưu, Nỗi Buồn Chiến Tranh, Thiên Sứ, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Những Mảnh Đời Đen Trắng, Đi Về Nơi Hoang Dã.... Văn chương thời Đổi Mới không còn hiện thực thô thiển, ngây ngô. Những nhà văn thời này phá rào đi vào tìm hiểu những qui luật nằm dưới tầng hiện tượng, với con người như cứu cánh của vănchương và nghệ thuật. Nhưng ác thay, thời sáng tạo văn học Đổi Mới quá ngắn. Hai, ba  năm sau,  kinh hoảng trước cuộc thế đổi thay ở Đông Âu và sau là Liên Xô, thế quyền Việt Nam liền chuyển từ Đổi Mới qua thế Nới Cũ,  quay đầu thần phục Trung Hoa vĩ đại ở Thành Đô từ ¼ thế kỷ cho đến nay. Chính trị thống soái, và văn chương buộc lại khom lưng, boi tro trát chấu. Số tác phẩm có giá trị từ đó chỉ đếm trên đầu ngón tay, với những Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Hoàng Minh Tường...Hiện tượng thế quyền chăn nuôi gần 1000 hội viên HNVVN, hơn 800 tờ báo, 300 trang  mạng, hàng trăm dư luận viên, biến văn chương nghệ thuật thành truồng trại sản xuất thịt ôi, nông trại trồng cây không trái, tất cả èo uộtvà ủ dột một mầu vàng những hoàng hôn sắp tắt. Buồn cười hơn là dưới áp lực kim tiền trọc phú, quan chức ‘’văn hóa’’ HNVVN tung hô những ‘’tác phẩm’’ như thơ làm trên đỉnh Yên Tử của Hoàng Trọng Thuật, lăm le đi ‘’nộp đơn’’ xin ứng  thí giải Nobel!

Thời Nới Cũ cũng là thời tham nhũng cửa quyền vượt ngưỡng tưởng tượng, phân hóa giàu nghèo tăng gấp bội, đạo lý xã hội xuống cấp trầm trọng,  biển mất đất mất, kinh tế bị những anh em đồng chí phương Bắc lũng đoạn. Nhưng đau đớn thay, những kẻ tự cho mình là lớp đặc tuyển thì dửng dưng vô cảm. Trong số đó, không ít lànhững người cầm bút cam tâm nô bộc, đánh đĩ tâm hồn, bán miệng nuôi trôn. Trước tình hình đó, Ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập (VĐĐL) - một  tổ chức dân sự hoàn toàn độc lập với mọi hệ thống  tổ chức và thiết chế trong và ngoài nước - ra  đời vào tháng 3 năm 2014 [ii], với mục đích góp phần xây dựng một nền văn học đích thực, tự do, nhân bản, hiện đại...trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.Và thật bất ngờ, HNVVN gạch tên 9 hội viên không cho bầu làm đại biểu tham dự Đại Hội Nhà Văn IX. Sự kiện  tùy tiện vô nguyên tắc này đã thành mồi lửa khiến 20 hội viên, đa phần là những  người  đã thành danh, đồng loạt từ bỏ HNVVN, trong đó có Nguyên Ngọc, một nhà văn niên trưởng đầy uy tín[iii]. Và là lẽ tất nhiên, những  thành viên của Ban vận động VĐĐL (BVĐ) tự hỏi họ đang và sẽ đối mặt với những  thách thức gì, ngoài chuyện thế quyền từng yêu cầu báo chí lề phải tẩy chay họ, lặng lẽ ‘’ bao vây’’ kinh tế, và đã ‘’dằn mặt’’ qua vụ việc bắt giam Bọ Lập dẫu nhà văn này đã rút tên khỏi BVĐ.

Nhà văn Võ Thị Hảo cảnh báo, hãy coi chừng một vụNVGP mới.Từ NVGP đến VĐĐL, thật ra xu thế thời đại đã thay đổi, cục diện chính trị khác hẳn, và hiện trạng xã hội Việt Nam cũng đã có những chuyển biến quan trọng.

Thời NVGP

Phong trào NVGP, tạm cho là từ 1-1956 đến 2-1957 với sự ra đời của Giai Phẩm và sau là Nhân Văn [iv], đặt những đòi hỏi dân chủ đầu tiên cho văn nghệ sĩ trên miền Bắc sau Hiệp Định Geneve.  Tố Hữu buộc tội hai nhà văn quân đội Trần Dần và Tử Phác: ...‘’ Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ".

Đòi hỏi trả quyền tự do sáng tác trong văn nghệ quân đội lây lan sang xã hội dân sự. Tiến trình của phong trào này xin được ghi dưới đâynhư cước chú[v]. Chỉ chưa đầy một năm sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, vào tháng 11 năm 56, cuộc chính biến ở Hungary bắt đầu. Cũng tháng 11, Quỳnh Lưu nổi dậy và ngay sau đó ông Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về báo chí, xác định lại những cấm kỵ trên bình diện thông tin, mở đầu cho những năm tháng khóa miệng toàn dân kéo dài nhiều thập niên.

Đầu 57, hồng quân Liên Xô tràn vào Hung trấn áp cuộc nổi dậy. Đế quốc Liên Xô hoàn toàn kiềm chế những  quốc gia chư hầu Đông Âu, và thế giới tiếp tục phân chia thành hai khối sau hiệp định Yalta cuối thế chiến ÌI. An tâm, những  nhà chính trị nắm thế quyền ở miền Bắc Việt Nam không cần tiếp tục ôn hòa với những  mầm mống ‘’ tư tưởng  tư sản tư bản’’. Từ 20 đến 28/2/57, Đại Hội Văn Nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát bọn NVGP". Cuối 1957, Mao Trạch Đông đánh phái hữu. Miền Bắc Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, đảng tổ chức hai lớp đấu tranh "chống bọn phản động NVGP" ở Thái Hà ấp.Đây là một  cuộc đấu tố khá qui mô, nhà văn ném đá vào nhau, không khí trấn áp nặng mùi côn đồ ít thấy trong một tầng lớp được gọi là trí thức. Đại Hội Văn Nghệ III, họp tại Hà Nội tháng 6 năm 58, hoàn tất "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" với bài tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của hàng trăm văn nghệ sĩ lên án "bọn NVGP", ra lệnh thi hành biện pháp kỷ luật.

Thất bại của NVGP đánh dấu mốc đầu tiên của nền văn hóa toàn trị in chỉ dấu ý thức Mác-Lênin, vận hành trong mô hình tổ chức Lêninít,  được bổ xung bằng những định chế Maoít hầu thích nghi với những xã hội nông nghiệp phương Đông. Có nhiều lý do giải thích sự xẩy thai của cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do sáng tạo gầy lên bởi những trí thức kiệt xuất như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thào, Trương Tửu...vànhững  nhà văn tên tuổi nhưPhan Khôi, Trần Dần, Hoàng Cầm, LêĐạt, Phùng Cung...:

1-      Thời NVGP, ý thức hệ Mác-Lênin vẫn còn hấp dẫn, vẽ ra một xã hội CS như xu  thể lịch sử tất yếu thay thế xã hội dân chủ tư bản tư sản Âu Tây. Từ cơ sở đó, những dân tộc Á-Phi nằm dưới ách thực dân nuôi hy vọng giải phóng ( Cuba, Algeria... chẳng hạn), mặc dù có những chính biến như cuộc nổi dậy ở Ba Lan, ở Hungary. 

 

2-      Thời NVGP, thế quyền ở miền Bắc rập khuôn Maoít, làm nhiểu sai lầm, từ Chỉnh đốn tổ chức, Chỉnh quân Chỉnh huấn, đánh Tư Sản, và nhất là Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ). Nhưng sau hiệp định Geneve,Việt Nam bị cắt đôi, ước vọng độc lập và thống nhất đất nước là linh thiêng trong truyền thống dân tộc. Với chiến thắng Điện Biên lẫy lừng, người Việt tìm lại được tự hào, quần chúng mủi lỏng trước những giọt nước mắt của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và bài diển văn về 7 sai lầm trong CCRĐ của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, lại góp công góp sức xây dựng xã hội mới đang thời chập chững. Chập chững, nhưng khắc nghiệt. Sắc lệnh về Báo Chí do ông Hồ Chí Minh ký bịt miệng toàn dân, và Đảng độc quyền in ấn khiến từ đó chỉ có gió một chiều thổi từ những Ủy ban nào là Tư Tưởng, nào là Tuyên Huấn, Tuyên Giáo... từ thời đó cho đến ngày nay.

Thời VĐĐL

Sau thời NVGP, miền Bắc lao vào đại cuộc mang tên Chống Mỹ Cứu Nước, tâm lực dồn hết vào  chiến tranh, những  vấn nạn dân sự thời bình bịquên lãng trong mộtthời gian dài cho đến nằm 1975. Rồi 40 năm vụt qua, đến nay là thời VĐĐL.So với thời NVGP, có nhiều yếu tố khác biệt khá quan trọng. Xin kể:

1-      Về mặt ý thức, phải chờ đến thập niên 60-70 mới xuất hiện những Zinoviev, Sakharov, Solzhenitsyn... ở Liên Xô, nêu lên nhiều mặt trái của xã hội XHCN. Trí thức Tây Âu vỡ mộng, rụt rẻ đề nghị một xã hội CS với khuôn mặt nhân bản. Tổ chức xã hội kiểu Lêninít phi nhân tạo ra một tầng lớpquyền lực mới (nomenklatura), ý thức hệ Mác-Lê thành một ảo ảnh tan như băng dưới ánh mặt trời. Ngày nay, hệ thống  của cái gọi là XHCN hoàn toàn phá sản, và nếu còn  thì chỉ có Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba là những quốc gia mang cái tên gọi nhưng thực chất thì chẳng còn gì  để tung hô Mác-Lê. Vô sản thế giới, nay hết thời, chẳng còn ai kêu gọi hãy đoàn kết lại!

 

2-      Từ 1976, đất nước thống nhất nhưng lòng người thì không. Thế quyền rải trên 3 miền đất nước những trại Học Tập Cải Tạo nhốt hàng trăm ngàn người, ra chính sách ‘’ bán chính thức’’ thu vàng đuổi người, đẩy con em ra khơi vượt biển. Số thuyền nhân chết chìm đếm ra đến vài trăm ngàn, và những người tha hương lên đến ba, bốn triệu. Đất không lành, chim bay được thì bay, đậu lại chỉ mang cái kiếp ‘’cột đèn’’ không đi được. Thế quyền độc trị đánh mất chính danh, nay thấp thỏm mong thời gian xóa mờ tội  trạng.

 

3-      Mặt khác, từ 40 năm nay, hứa hẹn xây dựng một xã hội vững mạnh với một nền kinh tế hiện đại và lành mạnh nay là những lời hứa suông. Dư luận nay đều rõ: kinh tế Việt Nam đang trên đà tiêu vong, chuyên bán nguyên vật liệu và gia công giá rẻ,  bị Trung Quốc lũng đoạn gần như toàn bộ, ngân sách thâm thủng, nhập siêu, nợ nần còn hơn Chúa Chổm. Người Việt nay sưu cao thuế nặng, công ăn việc làm bấp bênh, đa số vất vưởng với một nền Giáo Dục và Y Tế không đáp ứng  được những nhu  cầu tối thiểu. Tệ nạn xã hội, đặc biệt đạo lý xuống cấp, là hệ quả của một nền độc trị thiểu năng, chỉ biết phục tùng người anh em phương Bắc, và thẳng tay áp bức con dân mình.

 

4-      Không thể không nói đến sự kiện Trung Quốc xâm lăng Việt Nam trên biển và ở những vùng đất biên giới. Thế quyền phản ứng e dè, nhượng bộ, và tránh né khiến những vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nổi cộm. Đã có những ví von những  kẻ đương quyền với những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc. Lá cờ độc lập vàgiải phóng dân tộc đang có cơvuột tay họ. Hơn nữa, rập khuôn mô hình xã hội Trung Quốc với những con mèo trắng cũng như đen, lá cờ XHCN  cũng thành những lá phướn vô hồn trong một chuyến xe tang mang ra nghĩa địa chôn những nắm chữ không còn nghĩa. Không có gì...Phải, không có gì quí hơn Lợi Ích Nhóm, không  có gì  ngoài phồn vinh giả tạo xây lên từ những công  trình rút ruột đến 40% đểlàm giầu cho những đại gia xuất thân con ông cháu cha, không có gì ngoài chuyện cướp đất, phá rừngmang cho Trung Quốc thuê những vùng địa lý có tính chiến lược quốc phòng. Không có gì..., không có gì khác hơn là xử dụng côn đồ của xã hội đen  đánh đập lương dân, bịt miệng những nhóm xã hội dân sự đòi công  lý. Không có gì...Không có gì qui hơn Độc Lập Tự Do. Nhưng nay không Độc Lập, cũng chẳng Tự Do thì những kẻ kế thừa ông Hồ Chí Minh làm sao giữ được chính danh.

 

5-      Cuối cùng. khác với thời NVGP, ngày nay thông tin mạng trở thành phổ cập. Rất khó chận bắt tin tức như những người thợ săn. Đối phó, thế quyền có hàng trăm tờ báo in, hàng trăm trang mạng lề phải và vô số dư luận viên, đúng  kiểu biện chứng biến lượng thành phẩm, cả vú lấp miệng, gõ thùng rỗng mong thấu đến trời cao. 

Thời VĐĐL như vậy hẳn khác xa với thời NVGP. Xu thế của thời đại nay  là con đường  tiến tới dân chủ, tự do và tôn trọng nhân quyền trên toàn thế giới. Việt Nam thì cứ tách riêng nhưmột ốc đảo lạc loài. Quan trọng, là thế quyền ởđóhầu như mất gần trọn gói tính chính danh. Phía trái của cái cạp quần quyền lực là sự suy sụp xã hội và kinh tế Việt Nam. Bên phải, kiếp nạn mất biển mất đảo mất cả đất liển mà vẫn ngậm đắng nuốt cay ‘’ bốn tốt’’ và ‘’ 16 chữ vàng’’. Nói cách nói của nhà văn quá cố Trần Dần thời NVGP, hãy nắm lấy cạp quần mà vật xuống. Quần tuột, vua cởi truồng, và tồng ngồng lông lá thì ai cũng như ai, con người cả mà!

Việc gạch tên 9 nhà văn không cho bầu làm đại biểu tham dự Đại Hội 9 của HNVVN là một cú đánh lén dưới thắt lưng, chứng tỏ tính ấu trĩ của một cơ quan có tầm quan trọng được thế quyền chỉ đạo và điều hành. Thái độ xởi lởi của ông Hữu Thỉnh với nhà văn Trần Kỳ Trung[vi], một động thái chính trịrẻ tiền, chỉ hùng hồn nói lên được cái tính vô liêm hèn hạ. Vì sao? Vì họ đã mất chính danh rồi! Hiểu như thế, chắc hẳn chẳng mấy ai  chui vào cái bẫy tự gạch tên mình ra khỏi BVĐVĐĐL

Nhưng VĐĐL  phải làm gì ở thời điểm này?

Tuyên xưng mục đích góp tay xây dựng mộtnền văn học đích thực, dân chủ, tự do và nhân bản...cần, nhưng HNVVN cũng có thể phát ngôn cùng một tôn chỉ. Khác là VĐĐL  đứng ngoài mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong cũng như ngoài nước, không hoạt động dưới sự chỉ đạo và vòng kim cô quản lý của ĐCSVN. Cái khác cơ bản này mới tạo hy vọng có thể xây dựng một  nền văn chương thôi ‘’phải đạo’’, không ‘’minh họa’’ bôi hồng trát son như từ xưa.

Làm gì để xây dựng? Trang mạng Văn Việt của BVĐVĐĐL (http://vanviet.info/) đã thực hiện nhiều đề mục quan trọng trong phần Nghiên Cứu-Phê Bình. Mục Văn Học Miền Nam 54-75 trả lại công  bằng và  danh dự cho những  nhà văn nhà thơ miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.  Mục Thảo Luận với những  bài về Viện Khổng Tử và Việc Dạy-Học Ngữ Văn  rất bổích. Về Văn và Thơ,  đề  nghị  thêm một diễn đàn riêng cho những  người  viết trẻ, trẻkhông ở nghĩa tuổi tác mà rộng hơn, trẻ ở cái mới trong khai phá và sáng tạo. Và để đốc thúc sáng tạo ở khâu này, tại sao Văn Việt  không  tổ chức những Bàn Tròn hội thảo trên những tác phẩm cũng như phương cách tiếp cận văn chương hiện đạiở trong  cũng như ở ngoài nước. Tại sao VĐĐL  không tạo ra những  Giải Thưởng tương tự như Giải Phan Châu Trinh mà nay được xã hội đánh giá nhưmột  mốc đo phẩm tính của những người làm công việc văn hóa.Nhắm đến lớp Trẻ trong số nhữngngười viết - người đọc rất quan trọng. Cũng hệt như NVGP xưa kia, VĐĐL ngày nay giới hạn vào lớp trí thức ưu tú thành thị, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Lớp này phần đông đứng tuổi, và hiển nhiên, lớp trẻ hơn hẳn tự thân có nhiều xung lực dấn thân cần thiết cho những bước đường dài.

Làm gi để VĐĐL có vị thế tách bạch với HNVVN? Vụ Nhã Thuyên về vấn đề  tự do học thuật là một thí dụ điển hình cho thấy VĐĐL có quan điểm rõ rệt  chứ không ngậm miệng ăn tiền. Trong trường hợp những nhà văn bị chính quyền sách nhiễu, bắt bớ...HNVVN thường không lên tiếng bảo vệ hội viên. VĐĐL đã có hành xử  khác.  thí dụ như lên tiếng bênh vực nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà thơ Đỗ Trung Quân, và kêu gọi hỗ trợ Bọ Lập khi nhà văn này bị bắt giam.  Việc VĐĐL cất tiếng nói mỗi khi tự do tư tưởng và tự do ngôn luận bị chà đạp là tất yếu .

Làm gì để VĐĐL không bị đánh đồng với một hội ái hữu con con của HNVVN? Gạch tên 9 nhà thơ, nhà văn là xúc phạm họ, và đồng thơì làm tổn thương đến uy tín của BVĐVĐĐL. Động thái thiếu trưởng thành này cần được xử lý rạch ròi về mặt luật pháp. VĐĐL nên tường trình sự vụ lên ông Đinh Thế Huynh, trường ban Tuyên Giáo TW, đòi ông Hữu Thỉnh giải trình một cách chính thức, và nếu không  thỏa đáng  thì khởi tố trên cơ sở pháp quyền dân sự.

Mặt khác, có thể thời điểm này là lúc VĐĐL nên chính thức ra đời với cương lĩnh và nội qui như từng thông báo (và hứa hẹn). Đó làmột bước dậy lên phong trào cho một nền văn học đích thực, tự do và nhân bản với những  nhà văn trong và ngoài nước thiết tha  thực hiện tiêu chí cao đẹp này. Đã có 22 tổ chức dân sự  độc lậpởViệt Nam, vàđối lại, lực cản với cái cáo buộc ‘’ diễn biến’’ lúc nào mà chẳng có. Nhưng co mìnhtrong thế thủ mãi thì  khó mà đánh động được những nhà văn đồng tâm huyết, đồng tâmý, nhưng còn nhiều ‘’tâm tư’’ đang mong chờnhững sự kiện rõ ràng thôi thúc họ dấn thân. Mở lối lót đường  tiến tới tương lai cần trí tuệ. Hiển nhiên, dũng khí làđiều kiện đủ.

NAM DAO

19-05-15

 

 



[i] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/05/150505_hoi_nhavan_van_doan_doc_lap

[ii]http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-van-dong-thanh-lap-van-doan-doc-lap-viet-nam/

[iii]http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-tu-bo-hoi-nha-van-viet-nam/

[iv] Biên khảo NVGP và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc của nhà nghiên cứu Thụy Khuê làmột tài liệu công phu (http://nhanvangiaipham.free.fr/) tôi xử dụng.  Để có cái nhìn trực tiếp của một nhân chứng và nạn nhân, tôi dựa thêm trên tập Ghi 1954-1960  của Trần Dần, do nhà văn Phạm Thị Hoài biên tập và hiệu đính, xuất bản bởi td mémoire, Paris, 2001

[v]Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với những bài chính: Nhất định thắng của Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao...Tháng 2/56, Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Tố Hữu triệu tập Đại Hội Cán Bộ Tuyên Huấn toàn miền Bắc để phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân, ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Hội Văn Nghệ tổ chức Đại hội, gồm 150 văn nghệ sĩ, ở 51 Trần Hưng Đạo để đánh Trần Dần. Trên báo, chiến dịch này bắt đầu với bài của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần" trên Văn Nghệ số 110, ngày 7/3/56.

Sau khi Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô, và Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng", Ba Lan nổi dậy. Gió có vẻ đổi chiều, Hội nghị X Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động phát động Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất. Trường Chinh từ chức Tổng Bí Thư. Hồ Chí Minh kiêm Tổng Bí Thư lẫn Chủ Tịch. Võ Nguyên Giáp đọc Bẩy sai lầm trongCải Cách Ruộng Đất. Hội Văn Nghệ được lệnh tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Nguyễn Hữu Đang đọc tham luận tổng kết chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung Ương Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa". Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.

Tình hình quốc tế rối rắm của khối CS phà dưỡng khí cho cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận ở Việt Nam. Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra đời vào cuối tháng 8 năm 56, với những bài chủ chốt: Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy...Tháng sau, Nhân Văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ...Rồi Nhân Văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân Dân của Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...

Giai Phẩm tái xuất hiện vào mùa Thu, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, ... Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản. rồi Nguyễn Bính xuất bản báo Trăm Hoa, lập trường bênh vực Nhân Văn. Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo" tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà Nội.

Nhân Văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao ...Tiếp đến báo Đất Mới cùa sinh viên, rồi báo Sáng Tạo của nhóm sân khấu, điện ảnh xuất hiện. Tháng 11 năm 56, Nhân Văn số 5, với bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát). Tháng 12/56, Giai Phẩm Mùa Đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo ...

Tháng 11 năm 1956, Nhân Văn số 6 đang in, bị đình chỉ. Tự Do Diễn Đàn, tạp chí chuyên về lý luận, phê bình, sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12-1956, bị cấm. Tạp chi này đăng Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc...

[vi]http://vanviet.info/van-de-hom-nay/nhung-tieng-vo-tay-cam-dong/

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 117272)
N hà thờ vắng vẻ. Những hàng ghế trống im lìm. Chúng tôi đứng cạnh nhau sau hàng ghế cuối, tôi bảo nàng nhìn lên tượng Chúa và im lặng. Rất trang trọng, mấy phút sau tôi hỏi nàng, Kim có biết tôi vừa nói gì với Chúa không. Nàng gật đầu, mắt long lanh ướt. Tôi thầm cám ơn Chúa và nắm tay Kim rời nhà thờ. Tôi đã cầu hôn nàng như thế đó.
25 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 91827)
H ợp Lưu 115 đến với quí độc giả và văn hữu vào những ngày cuối tháng Mười khi “Cuộc cách mạnh Mùa Xuân Ả Rập” ở Lybia đã thành công bằng sự ra đi vĩnh viễn của Gaddafi, một tin ngắn của Reuters cho biết: “Ông Gaddafi và con trai đã bị thương, bị bắt sống nhưng sau đó đã chết. Theo truyền thống Hồi giáo, người chết phải chôn cất trong vòng một ngày, nên việc trưng bày xác chết cho người xem trong nhiều ngày đã làm cho nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng […]mọi người và các nhà lãnh đạo Libya đều đến xem xác Gaddafi để rút bài học và đừng bao giờ đàn áp người dân.” Đoạn tin trên khiến cho chúng ta liên tưởng đến nhiều việc...
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89520)
C uộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 , trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963. Mặc dù chỉ nhấn mạnh vào cuộc tự thiêu bi tráng của Thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 [...] “Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Đức” công bố lần đầu tiên một số tài liệu văn khố Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa và Phủ Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa, giúp vùi chôn một lần và mãi mãi loại sử văn suy tôn, nhớ ơn và đào mộ. Tạp Chí Hợp Lưu
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 106207)
D ưới tiểu tựa Vài Vấn Nạn Lịch Sử Thế Kỷ XX, tác giả đưa ra hai vấn nạn từng bị xuyên tạc trầm trọng bởi các hệ thống tuyên truyền của nhiều hơn vài ba thế lực chính trị. Vấn nạn thứ nhất là vai trò nhà ngoại giao của ông Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1945 tới 1969, trong giai đoạn 1945-1946, một giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hiện nay [...] Vấn nạn thứ hai là cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963...
16 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89478)
H iệp ước sơ bộ 6/3/1946 [Convention priliminaire de 6 mars 1946] là văn kiện ngoại giao đầu tiên ký giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] với đại diện Cộng Hòa Pháp tại Đông Dương, qua trung gian chính phủ Trùng Khánh. Mặc dù chỉ có tính cách tạm thời, văn kiện này công nhận sự hiện hữu của VNDCCH. Nó chính thức cải biến, nói theo các viên chức Bri-tên và Pháp, một thực thể chính trị “sinh ra trong hỗn loạn” thành một chính phủ lâm thời, của một “nước tự do” [un état libre] “có quốc hội, quân đội, tài chính và ngoại giao riêng,” nằm trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp.( 1)
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101986)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
14 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 97045)
T rong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89661)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 119241)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.
08 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105548)
... k ể từ hôm nay(Oct 8-2011) , người ta không còn mua vi cá ở California được nữa. Thống Đốc tiểu bang California đã ký ban hành luật cấm thủ đắc và bán vi cá nhập cảng vào California. Trong bản tuyên bố sau khi ký ban hành luật, Thống Đốc Jerry Brown nói rằng việc cắt những vi của những con cá mập còn sống và ném thân chúng xuống biển không những là hành động tàn bạo mà còn làm ô nhiễm nước biển.