- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

ĐÔI MẮT THỜI CHIẾN

12 Tháng Tư 20154:32 SA(Xem: 33587)
KyUc Thang Tu- ltt
Ký ức tháng 4-tranh Lê Thánh Thư







           Trên Tất Cả Những Đỉnh Cao Là Bình Yên-Goethe     

 

Người đạp xe thồ rướn sức lăn bánh xe lên đoạn dốc con đường đầy đá dăm và bụi.  Ông có dáng người cao to với nước da đen sạm, tuổi quá ba mươi, à không, bốn mươi. Tại đỉnh dốc, có lẽ thấm mệt, ông tạt vào quán mì Quảng ven đường. Quán nghe có vẻ thậm xưng, thạt ra chỉ có cái tủ đóng bằng tre củ kỹ cùng tấm lưới che bụi đường, bên trong ngất ngưởng những sợi mì vàng to bản. Chiếc nón lá rộng vành sùm sụp vẫn không giấu được khuôn mặt thông minh nhưng có vẻ mệt mỏi vì thiếu ăn. Chị chủ quán (kiêm chạy bàn) chăm chăm, tò mò nhìn xoáy vào khuôn mặt ấy. Có lẽ, từ khi mở quán đến giờ, không ai ăn nhanh như ông ta.

          Bất ngờ, chị đến gần la lớn. Chào, ông thiếu úy đồn trưởng. Người xe thồ giựt mình sém phun cọng mì, mắt nhìn lấm la lấm lét xung quanh. Tám năm trong tù ra, giờ mới có người gọi ông là thiếu úy. Lạy chị, đừng gọi tôi như rứa. Tôi mới được…từ trại cải tạo về…trả quyền công dân thôi. Bữa ni đạp xe kiếm cơm qua ngày. Ủa, mà sao chị ra nông nổi ni, phải bán mì. Tôi tưởng sau bảy lăm chị phải làm ông này bà nọ chứ. Chiến tranh mà ông. Chị thở dài.

Tất cả đều bắt đầu từ cái ngày…     

Bốn giờ chiều, một ngày oi nồng, tháng bức, năm 1973 tại tỉnh lỵ Quảng Tín miền Trung, chiếc trực thăng UH1 hùng hổ cất cánh đưa chàng thiếu úy trở lại cứ điểm 248 Đồi Tranh, Hiệp Đức. Dõi mắt xuống mặt đất, cứ mỗi lần ra trận, chàng như muốn nuốt vào trong lòng tất cả những gì thuộc về chốn thị thành tưởng chừng bình yên kia. Thời chiến, mọi thứ đều vội vã như đường đạn, kể cả cái chết. Cuối tầm mắt, loang loáng những ngôi mộ sơn trắng. Chàng cố nhìn xem nấm mộ nào là của mẹ. Ba ngày trước, chính chiếc trực thăng này vội vã đưa thiếu úy về nhà dự đám tang. Trước khi mất, mẹ thều thào, sao chưa thấy thằng út về. Bà vẫn chờ con với ánh mắt tha thiết dịu vợi.

          Vội vã trở về, vội vã hành quân.

          Bốn giờ sáng. Đặt chiếc áo giáp lên người, xốc lại cây súng colt 45 trễ nải bên hông, với chiếc nón sắt, thiếu úy lom khom bước ra khỏi hầm. Toàn đại đội rì rầm cầu nguyện. Ai cũng đem đấng tối cao ra để mặc cả cuộc đời trong canh bạc chiến tranh. Họ âm thầm hành quân tiến về làng Việt Cộng nơi giáp ranh giữa vùng đất quốc gia và cộng  sản. Tia nắng mặt trời vẫn chưa ló dạng. Trời đen kịt. Rừng lồ ô dài ngoằng đang ngả nghiêng như mạng giăng bẫy con người. Trong cuộc chiến này, ai bẫy ai, hay tự ta bẫy mình? Đi cứ đi. Khi về, mới biết mình còn sống. Vô số cành củi mục phát ánh lân tinh như nhảy múa, dẫn đường đoàn quân. Văng vẳng tiếng ồng ộc từ những chú tắc kè bị đánh thức sớm. Chàng thiếu úy đi cùng một trung đội sau chót. Không ai hành quân theo lối mòn cả. Trung đội dẫn đường gắng chặt hết các nhánh cây, đủ tạo lối cho một người len lỏi. Người sau nối tiếp theo ba lô người trước, cứ thế mà đi.

          Cảnh vật trong rừng bình yên quá. Càng im ắng, càng đáng sợ hơn. Mỗi khi vừa hành quân, nghe tiếng súng bắn tỉa từ xa, biết chắc rằng có quân chính qui Bắc Việt. Có vậy, du kích quân mới dám ra oai. Còn im lặng : Một, quân chính qui đã rút. Hai, coi chừng đi vào ổ phục kích. Thực ra hành quân chẳng có gì bí mật. Đôi khi mở đầu pháo 165 ly nã như mưa, như cảnh báo mấy ông Bắc Việt, quân lực VNCH đi đấy. Lỡ đi đầu ngọn gió, mùi thơm áo lính đã giặt ủi dưới tỉnh lỵ cũng vô tình làm du kích quân trốn nhanh.

          Mới bảy tháng trước thôi, chàng thiếu úy còn lạ nước lạ cái bị đẩy về miền Trung, cái xứ khỉ gió, chó ăn đá gà ăn muối. Nơi này nắng nóng oi bức nhất và giao tranh ác liệt nhất ở Việt Nam. Cuộc chiến ở miền Nam đã leo đến đỉnh dốc. Mùa hè đỏ lửa năm bảy hai, cứ điểm Charlie, Đại Lộc Quảng Nam, Bình Giã… những cái tên hư vô, giờ đây, đầy ám ảnh những máu, xác người, hồn ma vất vưởng đi trong chiều hoang. Những cuộc hành quân ấy không biết có đem lại bình an, hay thêm vài người lính tử vong. Lần đầu ra trận, nếm mùi bắn tỉa, Chàng chạy bán sống bán chết bên gốc cây trầu. Biệt danh chuẩn úy trầu có từ dạo ấy. Chỉ vài trận giao chiến, chàng trở nên lạnh lùng, ngạo đời hơn cùng mùi súng đạn. Những ngày đói khát, đêm ngủ bên xác người trong rừng đã làm tâm hồn người lính thêm giông bão. Chiến tranh. Chàng đã bị cuốn hút vào cuộc chiến dù chàng khinh khỉnh hai từ đó.

          Tám giờ sáng. Thấp thoáng hàng cây hóp (họ với cây tre) từ xa cùng những đường giao thông hào bọc quanh làng. Hào rộng chừng hai mét, đầy những hàm ếch. Làng nghèo quá. Những ngôi nhà - đúng hơn những túp lều - mái tranh, vách cũng bằng tranh. Nền nhà đất sét pha than pin đen sì. Đen đến nỗi khó mà biết đâu là đất đâu là nền nhà. Ngoài sân, cỏ hoang xanh rờn mọc ngang lối, đan xen những cây ớt chỉ thiên (do chim ỉa) đỏ lè. Một chốn bình yên, tưởng chừng như ở một đất nước khác, chứ không phải một Việt Nam điêu linh.

          Tiến vào làng, chàng thiếu úy dặn dò kỹ lính không nên đụng vào bất cứ ổ trứng, con gà nào. Không phải sợ mang tiếng xấu, mà Việt cộng đã gài mìn hết. Đó chỉ là cái bẫy chết người. Chú gà nào cũng gắn sợi dây dài vài mét vào ổ. Tay nào tham ăn mà đụng vào. Gà chạy, dây căng, mìn nổ. Người chết nhưng gà vẫn sống trơ.

Đặt một chân vào nhà, thiếu úy hơi sững người. Một thiếu phụ áng chừng bốn mươi hoặc trẻ hơn. Thời loạn lạc khó đoán tuổi. Đôi mắt sắc, sắc lắm, giống như mắt của mẹ chàng. Chào ông thiếu úy đồn trưởng. Coi bộ mấy tay lính vào trước đã cho chị biết. Sao nhà vắng thế này. Chết hết rồi ông thiếu úy. Chiến tranh mà…Chị hay đệm ba chữ “chiến tranh mà” một cách dửng dưng.

          Chàng lặng lẽ quan sát đôi mắt ấy. Đôi mắt không tỏ gì sợ hãi. Dù chị đang trong vòng vây hơn mười người lính. Cũng đúng thôi, làng của chị mà. Đồ hộp ngon quá. Chị cười. Từ sáng đến giờ, mới thấy chị vui. Ông thiếu úy cho tui thêm vài hộp. Chàng hơi chột dạ. Nhà này không thể chỉ mình chị…

          Chàng nghỉ trưa trên bộ phản giữa nhà. Cả tiểu đội vây quanh. Chị chủ nhà lặng lẽ ở nhà sau. Mi mắt chàng hơi nặng trĩu vì sáng nay thức dậy sớm. Bất chợt, chàng cảm thấy ớn lạnh, như có luồng điện chạy dọc sống lưng. Một đôi mắt sắc lẹm nhìn thẳng vào chàng, rồi liếc vội ra ngoài, thì thào…nguy hiểm. Chàng giật mình, ào ngay ra sân. Chỉ vài giây sau, một bóng áo đen thoát ra từ dưới bộ phản. Chớp. Sáng lòe, lựu đạn nổ. Chiếc phản thủng lỗ chỗ. Hình như mìn tự tạo nên chẳng ai bị thương. Hai cây đại liên phục sẵn ngoài sân thi nhau khạc lửa. Áo đen gục ngã ngay sân. Bất động nhưng còn hơi thở. Ngang thắt lưng lỏng khỏng cái xà cột và khẩu súng K54.

          Nắp hầm bí mật mở toang hoang ngay dưới bộ phản. Chàng vừa ngả mình trên cái chết mà không hay. Tiểu đội lính tràn vào nhà lần nữa. Hầm trống trơn. Chàng bước vào, tay phải đặt hờ lên khẩu súng ngắn. Chị chủ nhà ngồi bệt bất động trên sàn nhà bếp. Ánh mắt vẻ sợ hãi và đau đớn. Chàng tiến đến gần, chị lết thụt lùi vô góc bếp. Một người lính kéo chị ra gần hầm bí mật. Mười ngón tay cày nát nền nhà thành mười đường thẳng. Chàng bình thản hỏi. Chị đánh thức tôi phải không. Chị im lặng. Đầu hơi cúi thấp như đồng ý. Mắt chớp rồi nhìn xuống. Có lẽ sợ tai vách mạch rừng hay cứng lưỡi. Anh lính truyền tin chen vào. Bả nói láo thiếu úy ơi. Tui thấy bả ở dưới bếp, chứ có lên nhà trên đâu mà báo động với báo thức. Để em. Anh lính truyền tin kéo cơ bẩm cái rốp, đặt nòng súng lên thái dương chủ nhà.

Thôi, chuẩn bị rút quân. Chàng ra lệnh. Người ta phụ nữ chẳng có tấc sắt trong tay, chẳng chống đối, giết làm gì. Bắt được một tù binh và khẩu súng, vậy ngon cơm rồi. Anh lính hậm hực. Phí mấy lon đồ hộp quá thiếu úy. Tiếng cánh quạt phành phạch của trực thăng ồn ào bên kia lũy hóp. Quả pháo sáng đỏ bùng lên làm điểm báo hạ cánh. Anh lính lại càm ràm. Mẹ, tù binh vậy mà sướng, đi trực thăng, còn tụi này phải cuốc bộ băng rừng bốn tiếng nữa.

​          Vừa ra khỏi làng, chàng nghe văng vẳng một tiếng hú dài rùng rợn thê thảm. Tiếng hú tràn xuống thung lũng, xuyên qua rừng đại ngàn thăm thẳm. Tiếng hú kèm theo tiếng nấc. Đúng, tiếng hú của tui. Chị bán mì tiếp tục câu chuyện đang dang dở. Tiếng hú báo mọi người đang ẩn nấp biết quân đội Sài Gòn đã rút lui. Chị thoáng mừng vì thoát chết, nhưng chẳng biết vết thương của anh có nặng không, rồi về vùng quốc gia, biết ngày nào gặp lại…

​          Chuyện của anh.

​          Anh bị đa chấn thương. Gãy hai chân, thủng bụng, nát nhiều xương sườn. Sơ cứu xong, máy bay đưa anh thẳng về tỉnh lỵ, rồi dông thẳng ra quân y viện Đà Nẳng. Tỉnh giấc, anh ngơ ngác trong căn phòng trắng lạnh. Anh đòi về. Cô y tá ngạc nhiên.  Anh tù binh lại bị trọng thương, làm sao mà về. Anh nói sứ mệnh của anh phải đánh “Mỹ cút ngụy nhào”. Cô y tá lại cười. Thì Mỹ đầy ở đây nè. Anh giật mình pha chút bối rối. Lần đầu trong đời anh thấy Mỹ bằng xương bằng thịt. Một người Mỹ cao lớn hiền hậu. Chính người bác sĩ này đã giành giật linh hồn anh từ thần chết cả tuần nay.

Anh biết nếu giờ này anh còn trong rừng, anh sẽ ra sao? Tụi anh làm gì có thuốc men. Hai chân gãy sẽ ngâm trong nước muối, bị cưa bằng cưa sắt, rồi quăng trong góc rừng. Lúc đó anh tàn phế, đánh đấm được ai. Mà có trốn cũng không xong. Cột sống bất động. Anh ở lại quân y viện gần hai năm. Chuyện là vậy, nhưng nội tuyến báo về cấp trên của anh lại khác. Anh đã chiêu hồi. Tất cả đã chấm hết. Đầu tháng ba năm bảy lăm, bác sĩ Mỹ trong quân y viện về nước. Cuộc chiến sắp kết thúc. Cuối tháng ba, anh về chốn cũ Quảng Tín Tam Kỳ. Chẳng ai nhìn anh, chẳng ai dùng anh, môt kẻ bị oan, cõng trên vai hai chữ chiêu hồi.   

Chuyện của chị. 

Tin anh chiêu hồi chấn động cả làng. Chị không tin. Chị ngơ ngác như người mất hồn. Cấp trên đặt vấn đề trong cuộc hành quân ấy, vì sao người sĩ quan VNCH lại tha bổng chị. Bao nhiêu lần viết kiểm điểm, chị vẫn trả lời không biết vì sao. Nhốt. Thả. Nhốt. Thế là xong. Chị cô đơn ngay giữa đám đông bạn bè chóm xóm. Và chị ra đi… Chịu thôi. Chiến tranh mà…Sau năm bảy lăm, anh và chị kéo nhau về làng cũ. Làng vẫn như xưa, nhưng tình người không còn như xưa. Chẳng biết làm gì, anh chị về con dốc này, dốc Kỳ Mỹ, mở quán mì Quảng.

Nhìn ông xe thồ ăn mì Quảng ngon lành, chị chợt nhớ đến lon đồ hộp năm xưa trong cuộc hành quân. Lần ấy, chị hồi hộp lắm nhưng vẫn giả bộ bình tĩnh. Khi con người biết cái chết sắp xảy ra, ai mà không lăn tăn. Chị biết chắc anh sẽ tung lựu đạn giết ông thiếu úy. Anh lẻ loi, không thể nào kháng lại một trung đội vây quanh làng. Chị sẽ cùng chung số phận. Hai đổi một. Có cần thiết vậy không? Chị không muốn mất anh chút nào. Anh là người đàn ông duy nhất làm chị cười,  ngay cả khi chị không muốn cười. Hạnh phúc là lựa chọn. Mà sao hôm nay sự lựa chọn này quá éo le. Chiến tranh mà…Gặp đối phương phải giết thôi. Nhưng ngay lúc đó, bỗng dưng trong lòng chị có cái gì lên tiếng. Chị cầu mong đụng độ không xảy ra. Thiếu úy ơi, hãy chạy ra sân ngay.

Ông nha nhẩn gắp từng cọng mì. Ăn mà cứ như sợ hết. Sau chiến tranh gặp lại bạn cũ đã mừng, huống gì người một thời ông từng đối đầu. Dường như chị trẻ hơn ngày xưa. Thời bình phải khác chứ. Phúc cho chị trong cuộc hành quân năm xưa. Nếu có bất cứ người lính nào chết, có lẽ mạng chị không còn. Và may cho cả ba người. Mọi cuộc chiến do con người tiến hành và đều lấy lý do vì con người nên dẫu có tàn khốc đến mấy, đôi khi, ta vẫn thấy được “tính người” và có lẽ vì thế nhân loại vẫn còn chút gì đó gọi là may mắn.

Bốn giờ chiều, nắng bớt gắt. Ông còn muốn đạp thêm vài cuốc xe, đành từ giã chị bán mì. Chia tay, ông do dự muốn hỏi, trong buổi trưa hành quân ấy, chị có thực sự báo thức ông không. Nhưng ông nghĩ lại rồi nở nụ cười. Chuyện chị báo động hay không đâu còn quan trọng. Chiến tranh đã qua rồi. Lúc này anh mới tập tễnh chống gậy bước ra từ bếp. Miệng cười hơi xếch một chút, di chứng của lần bị trọng thương năm xưa. Hai người đàn ông từng ở hai chiến tuyến, mười năm sau mới gặp lại. Anh không nói gì nhiều. Một cái xiết tay thật chặt. Kèm một túi mì Quảng to tướng cho các cháu ở nhà.

Trên đường về, ông cảm thấy chiếc xe bỗng nhẹ tênh, có lẽ trong lòng thanh thản hay xe đang xuôi dốc về chốn bình yên…

Chiều trên bờ Đông nước Mỹ. Ông thiếu úy, giờ đã là ông cụ ngoài bảy mươi, ngẫm lại chuyện ngày xưa rồi nhìn lên bàn thờ. Nắng chiều lóa mắt hay tuổi già, ông chỉ thấy một cặp mắt sắc lắm trong khung hình nhìn thẳng vào ông.

 

THÁI BẢO
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33900)
R ồi cũng đến lúc không còn để nói câu tiên tri nở trắng cánh phù dung rồi cũng đến lúc không còn để đợi khúc tình xa rớt lại giữa lưng chừng
22 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33619)
B ạn tôi dậy cho tôi viết ca khúc Sau 3 tuần bắt tôi viết 8 tiểu đoạn Tôi ghi note cho từng tiểu đoạn Tất cả đều không có gì sai Bạn dạo những note kia bằng dương cầm Tôi nghe những âm thanh là lạ Bạn nói với tôi  Cái này không phải nhạc Hiền ơi…
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31802)
MKDSNM được phát hành vào một thời điểm rất ý nghĩa, ngay sau Hội nghị Thượng Đỉnh Mekong II / MRC Summit II vừa diễn ra tại Thành Phố Sài Gòn ngày 5 tháng 4, 2014. Hội nghị này đã được giới quan sát quốc tế và các nhà hoạt động môi sinh đánh giá như một thất bại về phía Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ sự phát triển bền vững hệ sinh thái Sông Mekong, và ĐBSCL, cũng là mạch sống của ngót 70 triệu cư dân sống trong lưu vực.
21 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 36362)
K hi về đã lạnh vườn xưa Chỉ nghe giá rét sang mùa mà thôi Giờ em heo hút phương trời Biết chăng đây có một người nhớ thương
19 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34634)
Q ua một loạt truyện gởi đến độc giả Hợp Lưu gần như liêu trai và siêu thực, Uyên Lê tâm sự: “ Em chỉ thích viết về quê hương này, về Việt nam, có những điều đẹp như hoang đường ... Chỉ có yêu thật lòng người ta mới thấy cái đẹp của người mình yêu. Em viết về Phan Thiết và nước mắm rất nhiều, em cho đó là cái đẹp và tình! Em cũng viết nhiều về Huế… em không biết HL có thích chất tự tình quê hương đó của em không…” Chúng tôi xin gởi đến quí bạn đọc một bài viết về Phan Thiết của tác giả Uyên Lê.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37270)
C hỉ còn một góc phố Và một ngã tư chơ vơ không người chờ đợi Em đi qua hôm nào anh đâu biết Một nửa tình buồn lạc nhịp ngoài đêm
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 32185)
Đ ồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37699)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34663)
T ôi mãi bước trên con đường uốn cong chữ S móc nhau nối xích lại gần để biến dạng một hình lưỡi câu đu đưa trước cuống họng khát giữa tiếng rền than
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35190)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.