- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Mùa Ngâu

07 Tháng Mười Hai 201411:10 CH(Xem: 29425)
Lanh-PhamAnhDung
Lạnh - ảnh Phạm Anh Dũng


Ngày và đêm đã báo hiệu một mùa Ngâu nữa.
Những đám mây đen lướt thướt từ rạng ngày đó, và màn sương hơi nước là đà trên ngọn cây, tia mặt trời rét mướt không xuyên qua nổi đám mây hình tầng tháp ngược để đến được đồng cỏ, và ngọn cỏ se mình trĩu nặng tiếng thở dài của đêm sâu, tất cả báo hiệu mùa Ngâu.
Dòng sông sau nhà lấp xấp con nước, lục bình từ đâu ùa về nhiều đếm không xuể được, sắc tím nhàn nhạt rưng rưng dập dềnh nổi trôi thứ "nhan sắc muộn phiền".
Và gió, cơ man nào là gió rền rĩ, kêu than, xào xạc trên từng cao kia xanh lá, lang thang dật dờ trên khắp cánh đồng, xộc vào áo, tung tóe vào tóc, quẩn quanh lạnh ngắt tay chân khi đêm về.
Và một trời sao lặng lờ dấu ánh mắt hăm hở về tối, trăng non đầu mùa như nửa vành móng tay màu hồng nhạt cũng không thấy nữa.
Chỉ còn một dải ngân hà sáng bạc, như một dòng uốn khúc miên man, vô tận, vô tình vắt ngang trên bầu trời.
Mùa Ngâu lại về rồi!
Nghe trong tiếng mưa đã có mùi khóc than, bạc nhược, đã có hơi héo hắt ảo não u sầu. Những cung trường đoản đứt đoạn trong đêm khuya trỗi lên không ngớt...

Tình là tình vì đâu?
Người và người lìa nhau
sao vội yêu chi để biết đau.
Ai hỏi sầu là gì?
ai hỏi yêu là gì?
Nhìn lên trời cao,
chỉ thấy mây trôi,
chỉ thấy sao trôi
chỉ thấy sầu thương không dứt!...

Đó là khúc đoạn trường của mùa Ngâu tháng bảy. Bao giờ cũng vậy, đến mỗi mùa ngâu, ông già mù đánh đờn cuối hẻm lại đem chiếc cần đàn đã ẩm ra phơi, rồi gõ lên mấy tiếng sắc cạnh thê lương hòa quyện với hơi mây, hơi sương, hơi mưa mà thành khúc Ngâu ẩn ức...

Những người đàn bà trong xóm lục tục hong áo nâu trong hơi khói mù mịt , mùi ẩm ương ngây ngất bốc lên khắp mấy gian nhà. Có người cho thêm vỏ quế vào bếp, có người rắc thêm chút trầm, rồi những đêm rằm, dù mịt mù không trăng, mùi hương sẽ bốc thẳng lên trời cao dịu nhĩu một vùng u uất.

Những người đàn ông mắt nhìn xa vào chân trời không đi đến được. Chân trời vào mùa ngâu mướt màu tím khói, lãng đãng vừa xa vừa gần, gợi nhiều nỗ niềm tiếc thương, chiều thì hoang vắng mà đêm là trống rỗng.

Chiều chị ra đứng bên hàng rào, tay vịn vào kẽm gai đến trầy sướt mà không hay. Đã ứa máu đến tận sâu trong tim, người ta còn thấy đau đớn chi đến ngoại thân da thịt. Mẹ nhìn theo mà thì thầm. 

Chị là nhan sắc của muộn phiền, mẹ than thở. Nhan sắc đàn bà song hành với thời gian và tiếng thở dài. Thời gian lướt qua còn ghi dấu lại đã đành, mà tiếng thở dài không nuốt trọn vào đêm sâu, không trôi ngược vào bụng dạ sâu sắc rối bời bời mà quấn quyện trên làn da, cơ mặt thành những đường rãnh chi chít vì nhớ thương và đợi chờ.

Thân đàn bà có thì, đợi chờ chi cho cơ cực. Mẹ che miệng rì rầm.

Mà là đàn bà nhan sắc, càng tăng thêm vẻ bi thương của đợi chờ.
Chị là một nhan sắc của làng. Nhan sắc không được thừa nhận. Vì mẹ chị sinh rớt dưới nước, người ta rủ rỉ với nhau, từ 9 tháng 10 ngày trước hình thành trong dạ nhau của người mẹ, đứa trẻ đã bị thủy thần đánh dấu. Ngày tiếng khóc của chị chạm vào làn nước xanh như sắc trời tháng bảy mùa ngâu là ngày thủy thần trồi lên nhìn mặt con dâu, con nước chưa bao giờ xiết lớn đến thế, trôi mất một cù lao chỉ trong một giờ đồng hồ!

Vậy là duyên số chị đã định đoạt, không ai dám rước về một nhan sắc "họa thủy" sinh ra vào tháng bảy mùa Ngâu, lại thêm nốt ruồi đen nhỏ như hột đậu chìm sâu dưới khóe, "trích lệ tương phu" chỉ khổ khóc chồng, đã hết đâu còn thêm lúm đồng tiền sâu hoắm rờ rỡ dưới gò má cao màu mận ửng, sâu như một hồ chứa lệ ngầm.

Vậy là người ta có để ý, có chọc ghẹo, có lăng nhăng, có thương thầm, trộm nhớ, có đêm về bụng dạ râm ran, nhưng chưa một ai dám ngỏ ý rước chị về nhà làm vợ.

Đàn bà mà không ai rước, chẳng họa trước cũng họa sau. Mẹ rên rỉ. Không chi hãnh diện bằng đàn bà có người rước về, dẫu rước về để cắm đầu vào chảo cám heo, ngập tay chân trong bùn ao hái rau, thái chuối, hay đẻ quanh năm sòn sòn từ khi son rỗi đến lúc má xệ lưng còng, vẫn ngẩng cao đầu xênh xang hơn thứ đàn bà không ai rước. Đã là ước lệ của tục làng.

Cho đến ngày người đàn ông đó tới.
Thật ra chưa ai thấy được khuôn mặt của người đàn ông đó. Anh ta chỉ đến trong bóng đêm, rạng ngày đã đi. Hò hẹn bắt đầu từ tháng bảy, khi những trận mưa rỉ rả trắng trời, mù đất làm lòng người ta như dịu ra, nhũn đi trong nỗi sầu mang mang đất trời. Khi đó họ gặp nhau.

Ký ức của người đàn ông đó thật đẹp trong chị. Những ngày vui, ký ức đó ẩn hiện trong môi cười thắm và mắt sáng lóng lánh, như cả hồ nước rờn rợn hơi thu mong manh về hết trong mắt nhan sắc vốn muộn phiền.
Dù ký ức đó chỉ là về đêm, vòng tay ôm xiết cũng trong đêm, hơi thở rạo rực hòa trong tiếng nước sông hối hả và cỏ ướt dưới thân mềm hơn nhung lụa là gối đầu.

Ký ức sau này chị kể lại buồn như nước mà rực rỡ như nước.

Và người ấy cũng ra đi như con nước đến kỳ trở về biển. 
Mấy lần tò mò em hỏi gặng, chị chỉ cười rất xa vắng: anh ấy trong veo như nước, mà cũng sâu đằm như nước, vừa dịu dàng như nước vừa cuồng nhiệt như nước.

Em suy nghĩ, con người đến 78.8% phần trăm cơ thể là nước, thiếu nước có ai sống được, vậy người đàn ông bí ẩn đó là ai?

Khi em kể chị nghe chuyện mối tình Trương Chi Mỵ nương, đến đoạn chàng trai si tình chết đi, khối tình si còn tụ lại một viên ngọc trong vắt, chị bụm mặt khóc, nước mắt tuôn từ khóe mắt đen rức đa tình, lăn dài đọng trong lúm đồng tiền như hồ lệ. rồi xòe ra viên cuội trắng tròn vành vạnh, không vết nứt, chị nhặt được bên bờ cỏ sau những ngày hẹn hò và đợi chờ. Tình nước chỉ còn một viên cuội này mà thôi.

Em giấu chị không kể tiếp đoạn hậu của truyện khi Mỵ nương nhỏ lệ vào chén ngọc, chén ngọc vỡ tan và bóng chàng Trương chi cũng theo khói bay lên mà khuất. Hận tình được đền bằng chút tình bao nhiêu oan khuất đều tiêu tan.

Nước mắt chị nhỏ vào đá cuội bao nhiêu đêm, đá vẫn trơ lì không mòn. Tình dẫu đầy như nước nhưng lòng người lãng quên chỉ là đá cuội. Đá cuội không biết đau, không biết nhớ nhau, không biết u sầu.

Và chiều nay chị lại ra sát bên hàng rào, hai bàn tay cắm sâu vào kẽm gai không thấy nhói. Rồi cứ đứng vậy cho đến khi dải ngân hà màu sữa bạc uyển chuyển rùng rùng kéo qua bầu trời đêm trong hành trình vô tận vào tháng bảy.

Mùa ngâu đã bắt đầu rồi!
UYÊN LÊ

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
14 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 27740)
Sau thời gian dài lâm trọng bệnh, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, một cây bút lỗi lạc từ thời VNCH, đã thất lộc vào lúc 10:50 thứ Bảy, ngày 13/9/2014 tại nhà Dưỡng Lão (Nursing Home) Mission De La Casa trên đường Alvin, San Jose, California, hưởng thọ 74 tuổi.
14 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 33356)
SAN JOSE (VB) -- Nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc vừa gửi tin rằng, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từ trần tại San Jose lúc 10:30 giờ sáng Thứ Bảy 13 tháng 9-2014. Tin này thông báo từ chị Trương Gia Vy, vợ của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng và là người chăm sóc bên giường bệnh của nhà văn.
08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 33535)
Dường như có rất nhiều người đến tưới rượu lên mộ Trịnh Công Sơn, nhưng chỉ là để nhớ một bạn nhậu chứ không phải nhớ tiếng đàn, tiếng hát của Trịnh. Anh, nhớ bạn, vào quán một mình, kêu một ly rượu đầy và một chiếc ly không. Lặng lẽ ngồi, lặng lẽ uống. Hết ly mình, đến ly bạn. Mà ly bạn chỉ có ngụm nắng tàn.
08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 35204)
Đọc truyện Thái Bảo đưa người đọc vào những bất ngờ và con đường đưa đến những bất ngờ đầy những lôi cuốn đưa đẩy với các chi tiết được bố trí khéo léo xung quanh nhiều khúc mắc hấp dẫn.Thái Bảo viết phong phú, trải rộng từ Đông sang Tây, đi ngược về quá khứ, trở về hiện tại, đi sâu vào những giấc mơ ác mộng rồi quay về thực tại...Thái Bảo tốt nghiệp bác sĩ tại Việt Nam và hiện nay đang nghiên cứu khoa học, lãnh vực nano sinh hóa tại tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Hợp Lưu trân trọng giới thiệu các truyện ngắn đặc sắc của Thái Bảo đến quí độc giả và văn hữu.
08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 31123)
“Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh?” là một tranh luận lâu đời giữa các nhà văn. Tại Việt Nam, câu hỏi này chìm khuất vào trong chiến tranh rồi chịu kiểm soát của Ban Tuyên giáo. Tại Nam Mỹ, dấn thân vẫn còn là nguyên liệu của sáng tác và Santiago Sylvester nhắc lại một lần nữa ý nghĩa cùng điều kiện của dấn thân. [Trần Vũ]
08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 33499)
Khiếm khuyết lớn của dân tộc Việt là đã say mê khía cạnh chính trị của chiến tranh mà lãng quên khía cạnh thuần học thuật, quân sự của chiến tranh. Clausewitz nổi tiếng với mệnh đề thường xuyên được trích dẫn: "Chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị." Nhưng Clausewitz không viết duy nhất một mệnh đề này, mà soạn thảo tám tổng tập Cẩm nang Chiến tranh mà cho đến phút này vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt, ngay cả tóm lược .
01 Tháng Chín 20141:42 SA(Xem: 31794)
Tôi người mộng du - nhập vào mộng du - bước xuống cánh đồng . Tôi từ cánh đồng - lội tìm Suối khe - ngược lên đồi núi .. Tôi nghe hương hoa , tôi nghe mùi vị gió , tôi nghe mưa , tôi nghe hơi thở là lạ lá Tôi bắt gặp con Sâu .
27 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 36431)
LTS. “Nghệ Sĩ Lưu Vong”, đó là nhan đề cuốn sách của Jane Katz, phỏng vấn các văn nghệ sĩ thế giới tới tỵ nạn trên đất Mỹ...Cuộc phỏng vấn Mai Thảo, được thực hiện ngày 10 tháng 07, 1980...Và sau đây là bản lược dịch của Tâm Bình từ nguyên bản tiếng Anh, trích từ cuốn sách Artists in Exile, American Odyssey của Jane Katz do Stein & Day Publishers, New York xuất bản 1983.
27 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 34401)
Gia đình chúng tôi có mười bốn anh chị em, gồm năm anh em trai và chín chị em gái. Anh Mai Thảo là người thứ năm trong gia đình. Hai người chị và một người em gái mất sớm. Tới năm 1975, chúng tôi còn lại là mười một người. Tính theo anh em trai, anh là con trai thứ ba. Anh cả tôi là Nguyễn Đăng Thiện, anh kế là Nguyễn Đăng Viên rồi đến chị Tuyết là người chị gái đã mất vì bệnh thương hàn năm chị hai mươi tuổi. Tiếp đến là anh Mai Thảo...
27 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 36852)
Tôi ít thấy ai yêu thơ như Mai Thảo. Thuộc rất nhiều thơ, đặc biệt thơ tiền chiến và thơ những năm đầu kháng chiến, Mai Thảo có thể nói chuyện về thơ miên man từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày khác. Dường như chỉ khi nói chuyện về thơ, Mai Thảo mới hoạt bát, sôi nổi, say sưa, gửi hết hồn mình trong từng tiếng trầm tiếng bổng. Ly rượu trên tay, đầu lắc lư, mắt lim dim, Mai Thảo nói về thơ với giọng vừa xúc động như khi người ta kể lại một mối tình đầu, vừa thành kính như một con chiên kể về cuộc đời của Người Cứu Thế. Với Mai Thảo, thơ là cái gì thiêng liêng, rất đỗi thiêng liêng, như một tôn giáo. Với Mai Thảo, thơ, "chỉ thơ, mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương"