- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Vòng Tròn Tuyết

12 Tháng Mười Một 20144:11 SA(Xem: 34294)
THAIBAO-tuyet

Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

 

Chiều cuối năm ở xứ tuyết lạnh buồn và dài thê thảm. Nắng lạnh nhưng gay gắt. Những mảnh tuyết như hàng vạn tấm gương phản chiếu ánh trời tàn. Nhà tù liên bang Lost River nằm đìu hiu, trơ trọi gần sát biên giới Canada. Một khối bê tông hình lục giác vô tri, qua nắng, đổ bóng chỉ còn năm cạnh. Chẳng có tù nhân nào có thể thoát khỏi nhà tù này. Tiến sĩ Đức nằm bải hoải chờ cơm, thở dài nhớ lại quãng đời cay nghiệt…

Nữ giám thị Alyssa đẩy nhẹ tiến sĩ Đức vào phòng giam 5501, không quên kèm lời chúc mừng đến “nhà mới”. Nhìn từ phía sau Đức chả rõ mặt nàng, chỉ thấp thoáng chiếc áo sọc đen trắng qua cái eo gợi cảm của nàng. Bọn tù nhân thường bàn tán, trái banh mà lăn từ lưng nàng chắc sẽ mắt kẹt mãi mãi giữa lưng chừng trời. Khỉ gió, đẹp thế làm giám thị uổng phí cả đời. Không hiểu sao tất cả nữ giám thị nơi đây đều đẹp. Hay họ muốn dùng sắc đẹp để nhấn chìm những linh hồn quỉ dữ. Alyssa vừa đi khuất, một cú đánh lén làm Đức hoa cả mắt, chúi nhủi. Cái thằng nhọ này bố láo thật. Bằng thế võ Vovinam, bất ngờ, Đức tung người dùng hai chân kẹp chặt cổ quật đối phương sóng soài. Tiện thể, Đức đấm một cú thật mạnh vào đường phân giác giữa hai háng gã da đen. Hực. Thằng nhọ la oăn oẳn, hai mắt trợn ngược, trắng nhã, tưởng như hai vật thể truyền giống đã chạy ngược về hai hốc mắt. Đức hất hàm: Thằng nhọ kia, mày là thằng đếch nào? Thằng tù cũ vẫn ôm hạ bộ nhăn nhó: Chắc mày... không biết tao. Tao chính là người đi giao hàng... cho tụi mày. Thế mà khi tao vào đây, chẳng có ai lo. Tao cùng đường mới dính vào nghề này. Còn mày, đường đường tiến sĩ, sao lại sa chân vào đây? Tao không hiểu nổi.

Ừ, Đức còn chưa hiểu nổi cuộc đời mình nữa là hắn.

Chữ  tài liền với chữ tai một vần, vận vào đời gã thật chua cay. Tính đến giờ phút này, Đức đã có hai vợ. Vợ Cũ và Vợ Mới. Thực ra cả hai đều đã cũ, họ đều bỏ Đức rồi. Đức sống theo một triết lý khác thường. Chẳng thà để vợ phụ ta, chứ ta không bao giờ phụ vợ. Đức chưa bao giờ bỏ vợ, đơn giản, trước sau gì vợ cũng bỏ gã thôi. Thà như vậy, mà được tiếng thơm. Đức quen Vợ Cũ từ độ tuổi trăng tròn. Lúc còn giâm dây khoai lang tím ngoài đồng. Vợ Cũ tuy ít học, nhưng nói câu nào thâm câu đó. Hết lớp mười hai, Đức mộng làm bác sĩ, lại thi rớt. Vợ Cũ khuyên Đức thi Nông Lâm cho gần gũi ruộng đồng. Thế mà hay. Rớt y, gã lại đậu bảng vàng ngành trồng trọt. Hết bốn năm đại học, Đức được giữ lại trường, hoạn lộ trở nên thênh thang. Chẳng mấy chốc, Đức túm cái bằng thạc sĩ ở Philippines. Rồi giựt món nghiên cứu sinh ở Hoa Kỳ qua học bổng Fulbright. Đời trớ trêu, càng cao danh vọng, vợ chồng càng lao đao. Vợ Cũ có bệnh dị ứng mà thói đời thường gọi đùa dị ứng toàn tập. Dị ứng cả tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, mỹ phẩm. Nói chung tất tần tật. Mỗi lần dị ứng nàng lại ói ra mật xanh mật vàng. Lúc mới cưới, cả hai họ đều mừng hụt tưởng nàng ốm nghén. Thế rồi, điều gì đến đã đến. Nàng đơn phương li dị Đức gần ngày gã đi Mỹ. Nàng thích sống ở quê hơn. May trời còn thương gã, cả hai vẫn chưa có con. Ngồi sau xe trở về từ tòa án, nàng buông một câu cho đến giờ Đức vẫn còn đau: “Anh có bao giờ thương em đâu, chỉ toàn em mơ thôi.”

Luận án tốt nghiệp tiến sĩ của Đức làm giới y khoa Hoa Kỳ choáng váng. Đức lai tạo thành công giống cây cần sa mới, chỉ năm tuần tuổi đủ thu hoạch lá và hoa, giảm phân nửa thời gian. Các băng đảng ma túy càng choáng hơn và sốt sắng săn lùng gã. Đối với Đức, trồng cây cần sa dễ như giâm dây khoai lang ở bên nhà. Và từ đây đời gã mới bắt đầu gập ghềnh.

Lâu lắm rồi Đức mới ghé thăm cộng đồng người Việt ở Toronto. Nghe mấy tay làm nail bên đó kháo nhau, giờ, ai giũa nail làm gì, trồng cỏ đi, Đức chỉ cười thầm: thiên hạ không hề biết bậc thầy cần sa đang ngồi trước mặt. Nhưng có người biết mới tài. Chính Vợ Mới sau này của Đức. Mỗi lần nhìn nàng, một thằng từng có vợ như gã đành phải cụp mặt. Cái nhìn sắc lẻm của nàng như muốn thiêu đốt đối phương. Nàng, một phụ nữ nhan sắc bình thường (cũng như Vợ Cũ, đi ngoài phố chẳng anh trai nào ngoái nhìn), ngoại trừ trí thông minh sắc sảo. Đức không phải tuýp đàn ông yêu bằng mắt sờ bằng tay. Đức yêu bằng bộ não.

Trai độc thân, gái chưa chồng, nên quyến luyến nhau. Một tuần sau, nàng dẫn gã ra mắt cha nàng. Đức chưa hề biết đó là ông trùm cần sa Bắc Mỹ. Cả gã và ông trùm đều thả câu. Không biết mèo nào cắn mỉu nào. Ông trùm cần gã vì gã thông minh cùng giống cần sa ngắn ngày. Còn gã, vì tấm thẻ xanh và gia tài đồ sộ. Chưa hết một tuần trà, ông trùm đã cảm phục tài của gã. Tiến sĩ Mỹ không tài sao được. Nè, chú mày ăn thịt cầy không? Ông trùm đột ngột hỏi. OK, thứ Sáu này bay. Gã ngơ ngác. Bay đi đâu. Thì Việt Nam, chứ đâu nữa. Sau này, gã vẫn giữ thói quen về Sài Gòn nhậu mộc tồn cùng bạn hữu. Sáng thứ Sáu bay từ Minnesota. Khuya thứ Bảy hạ cánh Sài Gòn. Chín giờ tối Chủ nhật ngừng cuộc lai rai, ra sân bay về Mỹ. Lần nào cũng vậy, trước khi chào anh em, gã quẹt miệng, thả một câu tếu táo: Thuý Kiều ngày xưa biết bán thịt cầy thế này, chắc đâu đến nỗi bán mình chuộc cha.

Đứng trước thác nước Niagara hùng vĩ, ít người để ý thác thuộc về đất Mỹ, nhưng chỉ nhìn thấy từ Canada. Hình như thượng đế trêu ngươi nước Mỹ. Có tài nguyên mà không hưởng được. Chỉ Canada mới kiếm được tiền du lịch từ con thác này. Gã chợt phì cười, so sánh, như gã thông minh mà sao cứ nghèo hoài. Người đời thường nói nghèo là cái tội, đối với gã đôi khi là cái họa. Khi gã đã thoát nghèo, nhưng khao khát ngồi trên đống vàng và quyền lực vẫn còn cháy bỏng. Hơn một lần Vợ Cũ từng chán ngấy thói ham giàu ham quyền của gã. Quyền và tiền giống như miếng thịt mỡ trong nồi thịt kho ba ngày Tết. Ngán, ngán tận đỉnh đầu, nhưng không thể bỏ, dăm ba bữa sau lại thèm nhỏ dãi...

Đã khuya rồi, gã vẫn chưa thể nhắm mắt. Thời gian như đóng băng. Nhìn đăm đăm lên trần nhà, gã cứ tự hỏi sao lại bị lộ. Gã thường tự phụ điều hành đường dây trồng cần sa trong nhà như gã, cảnh sát cũng bó tay. Ngay chính cha vợ cũng gật gù. Ừ, mày thông minh thật. Công bằng mà nói, gã có nhiều sáng kiến. Nào là câu trộm điện, tránh dãy số trong đồng hồ điện nhà nhảy vọt gây nghi ngờ. Nào là đào basement tầng hai, bảo đảm vô hiệu hóa máy tầm nhiệt của cảnh sát. Rồi lãnh đạo đế chế cần sa theo mô hình thắt cổ chai. Không một ai trong thế giới cần sa biết gã, trừ một tay giám đốc điều hành. Lương của gã giờ phải tính bằng chục triệu đô. Gã cười nhạt cho chức phụ giảng trong trường đại học chỉ trăm ngàn một năm. Gã vẫn chưa muốn dừng. Đích đến của gã, ghế ông trùm.

Lồng lộn, tức tối, gã cứ thế đi vòng vòng trong căn phòng 6 feet 8 feet. Chừa chiếc giường tầng cho hai tù nhân, bồn rửa mặt, toilet, phòng giam chỉ còn cỡ ba mươi feet vuông. Gã cười nhạo cái vòng ma thuật, vòng kim cô. Gã hiểu tự do không chỉ thoát khỏi nhà giam nhỏ, mà cần thoát khỏi những hành vi, tư tưởng lầm lạc. Đi vòng riết thành thói quen. Tối nào không đi không ngủ ngon. Đi cho quên mùi xú uế nhà tù, cho quên cảnh cô đơn không người thăm hỏi. Mới vào tù một tháng Vợ Mới đã đơn phương li dị. Người thân không còn, quyền lực cũng vỗ cánh bay đi. Tiền (còn chăng) có ý nghĩa gì với gã. Thực ra, khi chấp nhận làm giám đốc kỹ thuật cho ông trùm, gã biết rằng đã đặt một chân vào tù. Một tay ngạo đời như gã, đâu sợ ai. Gã lập phương án hai. Giữ tiền riêng phòng sa cơ thất thế. Đột ngột ông-trùm-cha-vợ qua đời sau cuộc săn thú ở South Dakota. Gã tiếp quản ngai vua cần sa Bắc Mỹ. Tiền của gã nhiều như quân Nguyên. Đức giàu và mạnh đến nỗi khi đế chế của gã sụp đổ, doanh số nước hoa Burberry ở Hoa Kỳ tụt thê thảm, gần 40 phần trăm. Số là khi giao chuyển hàng, Đức đã cho sử dụng nước hoa để áp chế mùi hăng của hoa cần sa. Nhưng chỉ duy nhất loại Burberry hữu dụng.

Để giết thời gian, Đức viết nhật ký hòng giảm stress. Viết đến khuya. Hai giờ sáng. Thằng nhọ, bạn tù cùng phòng đã ngủ say. Chợt ổ khóa cửa lay nhẹ. Một bóng người đổ dài ngoài hành lang ra hiệu gã im lặng. Cửa mở. Gã âm thầm đi theo… nữ giám thị Allysa. Đã mang án tù chung thân, gã còn ngán gì mà không dám đi. Huống gì đây một nữ giám thị xinh đẹp. Thực ra từ lúc vô tù, gã chẳng hề nghĩ gì đến phụ nữ. Ngay cả ngoài đời gã cũng thế. Đến cuối hành lang, Allysa đưa gã vào căn phòng khang trang. Lúc này, gã mới biết phòng nghỉ của giám thị. Allysa nồng nhiệt tấn công gã. Sững sờ, gã chưa bao giờ rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như vầy. Không cần biết gã nghĩ gì, Allysa cứ im lặng siết lấy gã như trăn quấn mồi. Gã trơ ra. Gã ê chề như đang bị hiếp. Nhưng rồi, tài đánh lưỡi điệu nghệ của Allysa đã đánh thức con rắn ngủ quên năm năm hơn. Con rắn phùng mang, bò, mơn trớn lên đồi Vệ Nữ... Qua cơn mây mưa, gã không có cảm giác thỏa mãn như từng có. Thay vào đó, cảm giác hụt hẫng, tự chửi rủa mình. Đức à, mày chỉ là con đực bản năng không hơn không kém. Allysa nhún vai: Năm phút đầu anh còn thánh thiện, hai mươi lăm phút sau thì... Hai mươi chín phút rồi, anh phải về thôi, không nên ở lâu.

Đêm đó, Đức trằn trọc đến sáng. Nam nhi đại trượng phu mà bị đàn bà dắt mũi, thật nhục không gì bằng. Gã chợt thở dài, nhớ đến chuyện ông nội. Dòng họ gã đã mười ba đời sống bằng nghề trồng khoai lang tím. Lúc tuổi xế chiều, ông nội thường ao ước có đứa cháu tinh thông học vấn, mang vẻ vang cho dòng họ, thoát khỏi kiếp nghèo. Ý nguyện của ông đã được gã dồn tâm huyết thực hiện, chỉ có điều, kết quả con đường học vấn của gã lại là cái nhà tù này.

Ngày qua ngày Đức chỉ còn biết ăn, ngủ và chờ Alyssa ban ơn mưa móc. Bỗng một hôm, Alyssa hỏi một câu xưa như trái đất, như bao cặp trên thế gian này từng hỏi. Anh có yêu em không? Gã đổ mồ hôi hột như đang thi vấn đáp. Khỉ thật, gã bị nàng cuốn đi, cứ thế là vập vào nhau chứ gã có khi nào thắc mắc vì sao. Thằng tù làm gì có lựa chọn mà thắc mắc cho mệt thân. Nàng hỏi thêm câu nữa, quần Đức muốn ướt luôn. Anh muốn thoát khỏi nhà tù này không? Muốn chứ. Tù chung thân là sẽ chết mục ruỗng trong tù. Thà chết ngoài đời vẫn sướng hơn.

Phải đến lần thứ mười ba, kế hoạch đào thoát của Đức mới thành công. Đêm ấy, đêm trực của Alyssa. Nàng khống chế tất cả camera quay hình trong nhà tù. Với bộ áo quần giám thị, Đức ung dung đi qua hết các hành lang. Rồi qua cửa chính. Hít một hơi. Làn khí lạnh buốt ùa vào phổi như bóp nghẹt lồng ngực. Tự do đây rồi.

Đêm khắc nghiệt mùa Đông. Tuyết không rơi. Nhiệt độ rớt xuống âm độ F. Chân lạnh buốt, Đức phải quàng thêm chiếc áo thun quanh giầy. Cần phải đi bộ hai tiếng nữa, ra khỏi bìa rừng sẽ có xe hơi chờ sẵn rước về Minneapolis. Đã hai giờ sáng. Trời tối đen. Dò từng bước về hướng Nam cùng chiếc la bàn mà Alyssa đưa. Nhìn đâu cũng thấy cây. Thông, sồi, tầng tầng lớp lớp. Đi hoài, chẳng thấy lối ra rừng. Mỗi khi quẫn trí, Đức phải đi vòng tròn. Đôi giày cày mặt tuyết thành vòng luẩn quẩn. Nhanh lên.

Bỗng một tia chớp xé ngang bầu trời. Lửa chớp. Đức ngã gục xuống tuyết. Máu đỏ chảy thành dòng trên hoa tuyết như bức tranh trừu tượng. Trán Đức nhíu lại, hình như không phải dấu than mà dấu hỏi. Sau này, cảnh sát kết luận Đức bị bắn chết nơi khác, ba tiếng sau mới bị quăng vào rừng sát nhà tù. Hai đoạn kết tuy khác nhau, nhưng cùng một sự thật, Đức đã lìa dương thế trong tiếng quạ đen kêu quang quác vang cả một góc rừng.

*

*     *

Vợ Mới hờ hững cầm tờ nhật báo StarTribune Minnesota có đăng hình tiến sĩ Đức nằm chết vùi trong tuyết ở bìa rừng. Sắc mặt nàng vẫn không thay đổi, xoèn xoẹt, chỉ bốn nhát dao sắc lẹm Gillett, tấm hình từ nhật báo rơi gọn vào bàn tay ngọc ngà. Phù. Cái búng tay điệu nghệ, tấm hình lượn một vòng đậu ngay ngắn lên bàn thờ người cha già xấu số. Với tay tắt chuông báo động lửa khói, nàng đốt cả một bó hương trầm và khấn thì thầm. Hình như nàng nhắc đến mấy từ rửa hận cho cha... chín suối... mỉm cười... Làn khói vẩn đặc trần nhà suốt cả đêm.

Khi làn sương sớm mai vừa tan, chừng một tiểu đội lính đặc nhiệm bài trừ ma túy liên bang DEA ập vào căn biệt thự trắng muốt sát bờ biển Miami. Vài tiếng súng nổ thưa thớt. Nữ giám thị Alyssa đã bị bắt cùng những thùng giấy đầy ắp tiền. Vài thùng còn lẫn những cánh hoa cần sa khô. Người ta ngạc nhiên thấy cả tấm hình tiến sĩ Đức và cuốn nhật ký mà gã đã ghi chép trong tù.

*

*     *

Chiều miền quê nghèo. Làn khói rơm bốc lên sau căn nhà ọp ẹp. Hai cụ già móm mém, tay run run lật từng trang nhật ký úa vàng, lẫn vết khô đen sậm của máu. Cuốn nhật ký của người con trai mà họ từng hi vọng làm rạng danh gia tộc. Nắng đã tàn. Chiều nghiêng, nhường thời gian cho bóng đêm. Khói vẫn vươn dài, gập ghềnh, lẩy bẩy, đổ kềnh ra tận miếng ruộng trơ gốc rạ sau nhà.

 

THÁI BẢO

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84606)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83647)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75994)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80778)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.
28 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 85850)
Con tàu đã trở nên ọp ẹp, mấy mươi năm còn gì. Người ta nói đây là chuyến tàu tốt nhất hiện nay. Hành khách bực dọc phàn nàn tốt gì mà tốt, như đống sắt vụn, làm như họ là kẻ trên trời rơi xuống không bằng.
23 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 88985)
Tình yêu, cũng như chiến tranh, là hai đề tài muôn thuở của con người. Văn chương ngoại quốc nói về chiến tranh, viết về những trận chiến gần, xa trong lịch sử, chúng ta vẫn thích đọc. Vậy thì tại sao, người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam lại nhàm chán?
20 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 92206)
... Tôi đã từng ăn thịt chuột. Tôi ăn vụng của em tôi. Bố cấm tôi nói cho ai biết. Bố đã cho thằng em tôi ăn bao nhiêu con chuột tôi cũng không nhớ nổi. Chỉ có điều bố thích như vậy. Bố nướng con chuột lên, thế thôi. Thằng em tôi cười hềnh hệch, nước dãi chảy dài, cầm con chuột gặm như một bắp ngô nướng. Những tảng máu chưa đông rịn đỏ hai mép. Tôi thấy đầu mình ung ung. Những hình ảnh như những mảnh vỡ lộn xộn va đập vào nhau liên hồi ...
20 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 89959)
Không ai biết cuộc sống của ai đang xáo trộn. Không ai biết ai đang nghĩ gì. Người chồng không bao giờ biết người vợ vừa gối đầu lên tay mình vừa dâm hoan với sếp của ả trong giấc mơ. Gã sếp đô con, bụng cuộn lên những bó cơ và làm tình thì miễn bàn. Người chồng không bao giờ biết âm hộ của ả nóng bừng như muốn nổ tung ra. Mà biết cũng chẳng thể chết ai vì ả là vợ của anh ta.
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 111504)
(Gởi anh Huy & chị Minh) Câu thơ còn trong trí nhớ Như mùa thu mỗi năm lại về Theo tuần hoàn trời đất Như đôi mắt em buồn giấu kín Chịu đựng An phận Cuộc đời mình mùa xuân đi qua Rất xa, rất xa...
19 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 92007)
Thành phố nằm bên một rẻo biển miền Trung yên bình và tĩnh lặng. Những ngày gầ n đây bổng nhiên được khuấy động bởi mấy chú cá mập, không hiểu vì sao lại lang thang vào bờ, chúng lượn lờ nơi bãi tắm trước khuôn viên trường, là bãi du lịch của thành phố. Thỉnh thoảng chúng lại ruỗi theo sóng nước cợt nhã với con người. Có hôm một chú cá mập con nhá vào mông ai đó, có hôm lại ngoạm vào giò của kẻ nào bơi đến gần. Bạn tôi phán: đất này “linh kiệt”. Tôi cười vui: Đất lành chim đậu, biển lành cá mập làm tổ .