- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Trên Đỉnh Mù Sương

07 Tháng Mười 20144:56 CH(Xem: 33290)

Tren Dinh Mu Suong- BAN MAI-bw

Q chở tôi bay trên xa lộ, đường vắng. Những cây cầu diễm lệ bắt qua sông Hàn rực rỡ về khuya. Đêm se lạnh, những đôi tình nhân âu yếm bên thành cầu, họ ngắm nhìn thành phố rực sáng ở phía chân trời.

 
Qua khu mới, hai bên đường rợp bóng cây, ánh sáng của ngọn đèn đường hắt trên những cành lá đong đưa như những linh hồn đứng phất phơ trong gió. Đà Nẵng mà tôi biết trong “Tháng ba gãy súng” của Cao Xuân Huy, với tiếng xe tăng rít trên đường nhựa, người di tản dồn cứng ở cửa Thuận An, với xác người ngập ngụa trên biển cả, người con gái điên lõa lồ trên boong tàu, viên sĩ quan choàng vội chiếc áo lính quanh mình cô, tiếng cười ngây dại của người đàn bà đi tìm con, tiếng van xin của những cậu lính trẻ thất thần cố gắng bám lên thành tàu trong ngày cuối…Tôi trôi trên những con đường mọc đầy quán bar quanh đồn lính, những dây thép gai chằng chịt trong “Mùa biển động” của Nguyễn Mộng Giác.


Nhà của S thuộc vùng ngoại ô, mưa bắt đầu nặng hạt. Tụi tôi đến trễ, vì Q bận việc ở Đài. Mưa bắn vào người tôi lạnh buốt khi tôi chạy dưới cơn mưa. Căn biệt thự kiểu mới với khu vườn thoáng đãng, xanh mát ở giữa khuôn viên. Những cành trúc đọng nước lấp lánh dưới ngọn đèn vàng. Ngôi nhà ấm áp với những đứa con ngoan, S đã có một cuộc sống ổn định qua bao thăng trầm. Những lát bánh hồng thơm dẻo, sừng sực dừa béo ngọt của xứ Tam Quan, quà quê tôi mang vào. Mấy chục năm rồi, nhưng tụi bạn tôi vẫn còn hồn nhiên như con nít. Thời đại học vô tư, đứa nào cùng mang trong lòng nhiệt huyết, thời của “Thép đã tôi thế đấy” sách gối đầu giường của lũ chúng tôi. Nhưng ra trường, mọi mơ ước của thế hệ chúng tôi sụp đỗ tan tành trước thực tế cuộc đời trần trụi. Thời bao cấp nghề giáo là một trong những nghề đói rách, thê thảm, muốn giữ lấy hình ảnh đẹp của người thầy trong mắt học trò có lẽ phải bỏ dạy, bạn tôi than. Bây giờ S là bà chủ cửa hàng xây dựng đang ăn nên làm ra.


Quán gỏi cá Thanh Hương vắng khách vì trời mưa, vì giờ ăn tối đã trễ, ly rượu vang màu đỏ sóng sánh. Lần đầu tiên tôi ăn món gỏi cá trích cuốn với các loại rau rừng, những món dân quê bây giờ đã lên mâm “đặc sản”. Ngày nay đi du lịch, từ Nam chí Bắc nơi đâu bạn cũng được tiếp thị món rau đặc sản vùng quê. Đến Tam Đảo, trong các nhà hàng bạn sẽ được đãi món đọt susu xào tỏi, thịt thỏ nướng. Đến Pleiku khách sẽ có món lẩu nấm với các loại rau rừng, về Bình Định bạn sẽ có món rau lang luộc chấm mắm cua… món ăn mà ông Võ Phiến mấy chục năm đi xa vẫn nhớ tha thiết trong tùy bút của mình.


Q kể tôi nghe ngày mới ra trường Q dạy trên vùng núi, những ngày hè đói khổ, bạn theo xe hàng xuôi Nam ngược Bắc, có lúc bạn thấy cuộc đời vô nghĩa, buồn đến mức, cái chết như một cứu rổi. Một thời gian, không chịu nổi cảnh tù hãm, Q bỏ dạy xuống Đà Nẵng tìm việc, rồi đi học tiếp, rồi chuyển sang làm Đài truyền hình. Tính Q sôi nổi, nắm bắt nhanh nhạy, có tay nghề vững trong biên tập bài, nên chẳng bao lâu Q làm đạo diễn truyền hình. Nghề này phải đi nhiều, tiếp xúc nhiều, bạn khác hẳn Q của những ngày xưa. Bốn năm học, chúng tôi ngồi cùng bàn, đi thực tập cùng nhau, cả hai trở thành hai đứa bạn thân. Nhớ những buổi chiều ở vùng quê Nhơn Hậu, bên cạnh thành Đồ Bàn, Q giành xách nước trên cái thành giếng đá ong cho P và tôi nấu cơm, cầm đèn hột vịt dò dẫm trên con đường làng tối đen cho chúng tôi đi sưu tầm văn học dân gian. Đêm nghe tiếng dế mèn nỉ non, tiếng ếch nhái ộp oạp dưới cánh đồng, tiếng gà gáy cầm canh…


Thời gian êm đềm tôi sống trong vòng tay gia đình, của những năm đầu tiên thời đại học cũng là thời gian H lang thang khắp nước Mỹ. Người bạn thân ngày tôi mới lớn, học hơn tôi một năm. Ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau nói chuyện trên trời dưới đất, cùng học bài, cùng nghe nhạc, cùng đọc sách, cùng kể những câu chuyện phiêu lưu. Khi đó, chúng tôi thích đọc cuốn “Hai vạn dặm dưới đáy biển” của Jules Verne và mê thuyền trưởng Nemo. Rồi một ngày, H biến mất, một năm sau tôi nhận thư H từ Phi Luật Tân, lúc đó tôi học năm thứ nhất đại học. Thời đó, nhận thư từ nước ngoài trong thế giới tư bản là một điều còn cấm kỵ, nhất là từ những người vượt biển bị cho là phản quốc. Tôi được phê trong học bạ là sống xa rời quần chúng! Thành phần tiểu tư sản! Hàng tháng họp phê bình và tự phê bình xếp loại hạnh kiểm A,B,C…

 

Sau này, tôi nghe H kể, sau gần hai năm ở trại tị nạn H định cư ở Mỹ. Nơi H đặt chân đến là Seattle, Washington, miền Tây nước Mỹ. Lần đầu tiên đến đất nước xa lạ, rơi trúng mùa Đông, thành phố Seattle buốt giá, mưa nhiều, bầu trời u ám. Mọi viễn cảnh mà H vẽ ra trong đầu khi còn ở trại tị nạn sụp đỗ tan tành trước thực tế trước mắt. Khung cảnh nơi này buồn chán, không sinh động như H nghĩ. Nhiều lần H cảm thấy tuyệt vọng, là một người thích phiêu lưu, khám phá, H quyết định đón xe bus đến những tiểu bang khác, mong tìm một nơi khí hậu ấm áp hơn, không am tường địa lý, không quen biết ai, không biết phải đi đâu, nhưng H quyết đi. Vậy là H lang thang từ tiểu bang này đến tiểu bang khác để sinh sống, đến nơi nào H cũng vào nhà thờ hỏi xin việc làm, và không từ nan bất cứ công việc gì từ dọn dẹp sau vườn, hái quả, lau dọn nhà cửa. Lúc đó niềm khao khát lớn nhất của H là được đi học, H liên lạc với bạn bè đang tứ tán khắp nước Mỹ để hỏi thăm cách thức và nhờ chỉ cho con đường đi. Cuối cùng H đến tiểu bang Ohio, một nơi thật lạnh, xung quanh là băng tuyết, có nhiều khi nhiệt độ xuống đến -20 độ, nhưng bạn không nề hà, lại rất vui vì ở nơi này mình được đi học.


Đó cũng là thời gian đêm nào tôi cũng mở đài BBC để nghe tin tức về những người Việt Nam vượt biển tị nạn, mong tìm tin tức bạn bè.

Và rồi, hành trình của chúng tôi mỗi người mỗi ngã bặt tin nhau suốt 30 năm. Ba mươi năm một thời gian quá dài của cuộc đời mỗi con người.


Khách sạn Riverside bên chân cầu Rồng nhộn nhịp, chuyến tập huấn khoa học công nghệ của Bộ Giáo dục triệu tập các trường Đại học tổ chức nơi này. Đêm Đà Nẵng hoa lệ trãi dài dưới tầm mắt tôi, mới mấy năm trở lại Đà Nẵng thay đổi và phát triển nhanh đến mức kinh ngạc. Cầu Rồng đèn xanh, đỏ nhấp nháy liên tục, dưới chân cầu người ta đang tổ chức cuộc thi nhảy hip hop và các Ban nhạc cho giới trẻ thành phố.


Tôi không còn trẻ nữa để thả mình vào những âm thanh gầm rú của các nhạc cụ điện tử, không đủ năng lượng để nhảy những vũ điệu quay cuồng. 

Tôi chỉ muốn một không gian yên tĩnh, chìm đắm vào những giai điệu du dương của một thời quá vãng… Quán Piano bar Tiếng dương cầm nằm trên đường Hoàng Văn Thụ, khu dân cư yên tĩnh là nơi chúng tôi tìm đến. Đây là quán của một người bạn Q. Xe con đậu hai bên đường chật cứng. Là một phòng trà nhỏ ấm áp, thân tình, nơi chốn tìm về của những người phần đông thuốc thế hệ chúng tôi. Phòng nhỏ, ca sĩ và khách ngồi nghe gần gũi, như những xẻ chia của người bạn lâu năm gặp mặt. Phong cách lãng tử, nhẹ nhàng. 
Nghe bạn kể căn nhà 3 tầng này trước đây là của một vị đại tá trong quân lực VNCH, sau 1975, vị đại tá đi học tập cải tạo, vợ con bị đuổi ra ngoài bắt đi kinh tế mới, nhà giao cho 3 vị cán bộ mới tiếp quản về, mỗi vị một tầng lầu. Mấy mẹ con vị đại tá này không biết sống ở đâu, không biết phải làm gì. Họ bèn lấy cái bàn đánh bóng bàn của gia đình để một góc trước căn nhà, ban ngày làm sạp bán vải, ban đêm cả nhà che màn ngủ trên cái bàn này. Rồi cũng sống qua, sau khi vị đại tá học tập trở về, cả nhà vượt biển, may mắn sau mấy ngày lênh đênh đói khát được tàu Vatican vớt đưa về định cư tại Ý. Chỉ còn một người con trai ở lại, căn nhà quá đỗi thân thương nên bằng mọi cách anh quyết chí làm ăn mua lại ngôi nhà của ba mẹ. Bây giờ, người con trai đã mua lại 2 tầng lầu, còn 1 tầng lầu nữa vị cán bộ vẫn còn ở chưa bán. Người chủ của quán “Tiếng dương cầm” này là người con trai ấy. Anh con trai buồn kể, đã bao nhiêu lần mời ba mẹ về lại VN thăm nhưng ông bà nhất quyết một đi không trở lại, không biết sau này có thay đổi không.
Những giai điệu thiết tha của Vũ Thành An trong Bài “Không tên số 1” qua tiếng đàn piano từng giọt thánh thót như thấm vào tim tôi:


Xin đời sống cho tôi mượn tiếng,
Xin cho cơn mê dài thêm một chuyến, 
...Còn đắng cay, còn hận, còn đau.

Mai đời có cho tôi gặp gỡ,
Xin cho đôi môi em cười rạng rỡ, 
...Để sống thêm, thêm lần trẻ thơ.


Lần đầu tiên tôi nghe giọng nói của H trên điện thoại sau hơn 30 năm, tôi ngập ngừng... thời gian đã cuốn trôi tất cả. Hành trình của H đã xảy ra điều gì tôi không biết, nhưng giờ đây bạn sống và chiêm nghiệm cuộc đời như một thiền sư. Bây giờ chúng ta suy ngẫm gì sau khi gần hết cuộc đời? có lần H hỏi tôi như vậy.


Nhìn lại mỗi con người là một hành trình khác biệt, và mấy ai hài lòng với cuộc đời mình đã sống. Nhưng dù sao đi nữa, cuộc sống của muôn loài là vậy, đều phải trãi qua những thăng trầm để tồn tại, cuộc đời là một thể nhị nguyên, luôn luôn bất toàn, luôn luôn thay đổi.


Một buổi sáng đứng trên đỉnh Bà Nà dưới cơn mưa tầm tả, gió buốt lạnh. Hoa Ban một màu tím biếc trên đỉnh sương mù. Tôi trôi bồng bềnh trong làn sương lạnh. Cảm nhận đời người như khói như sương.

Tôi hiểu vì sao ngày xưa, Trịnh Công Sơn đã từng viết: “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”.

Bao ngàn năm đã trôi qua câu hỏi  “Ta là ai, Ai là ta…” cuối cùng tất cả đều trở thành cát bụi.

 

 

BAN MAI
Quy Nhơn, 9/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 65870)
Đ àn chim với những con Rose breasted màu nâu nhạt, ngực đỏ;con Western King with fledgling cũng màu nâu nhưng cái cái ngực vàng hườm; con Red headed woodpecker mình gọi là chim gõ kiến có cái đầu màu đỏ, con Indigo Bunting tròn như con sáo quê nhà, nhưng lại xanh biếc như da trời. Tất cả bọn chúng, mỗi buổi sáng, theo nhau về ríu rít trong vườn nhà tôi...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 54379)
N guyễn Phi Khanh sinh năm 1355 và mất năm 1428[1] (có thuyết nói ông sinh năm 1336, mất năm 1408[2]), quê ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây (có thuyết nói ông còn có quê thứ hai ở Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương). Ông tên thật là Nguyễn Ứng Long, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống võ tướng. Nhưng ông lại là người say mê văn chương...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 63510)
Tôi chìm vào một giấc mơ, giấc mơ có những sợi dây bé xíu đan vào nhau thành những mắt lưới. Tôi đi tìm một thế giới, nỗi đau oán thù bị xóa bỏ, chỉ còn tôi với thế giới ấy.
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 60231)
B ài này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất, luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 ...
06 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 70344)
Bây giờ đã bước sang một ngày khác một ngày như và không như mọi ngày không còn nợ nần nào để tính sổ không còn niềm vui nào để cho đi hay giữ lại nỗi buồn...
11 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 93625)
Cuộc Họp Báo Nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền - 10/12/2012
10 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 91063)
S au hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 94949)
Một trong những vấn nạn, nếu không phải nghi án, lịch sử cận đại còn gây nhiều tranh luận là vấn đề âm mưu ve vãn [flirtation] Cộng Sản Hà Nội của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1897-1963) trong hai năm 1962-1963. Nhiều học giả thế giới đã cố gắng đưa ra những giải thích về vấn đề này. Người cho rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ [no longer be rational] nữa trước áp lực Mỹ. (1) Người cho rằng họ Ngô chỉ muốn blackmail hay chơi một ván bài poker với Mỹ. (2) Người cho rằng họ Ngô thực sự muốn nói chuyện với miền Bắc, (3) và nếu không có cuộc đảo chính 1/11/1963, Cộng Sản đã chiếm miền Nam vào cuối năm 1963.
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 93571)
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, các viên chức VNCH liên tục thúc dục Pháp can thiệp và yểm trợ. Ngày 21/12/1961, Đại sứ Phạm Khắc Hy gửi thư cho Charles Lucet, ngỏ ý muốn liên lạc với Pháp. Hơn nửa tháng sau, ngày 7/1/1962, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu gặp đại diện Pháp, xác nhận ý muốn liên lạc. Trương Vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc Hội, cũng tiết lộ với giới ngoại giao Pháp ở Sài Gòn là Nhu muốn Pháp tái khẳng định lập trường, vì Sài Gòn có cảm tưởng Paris đang nghiêng dần về phía Hà Nội.( 152)
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 98966)
Phần II II. NHỮNG THẾ LỰC CHI PHỐI BÊN NGOÀI: Chính sách hòa hoãn Mỹ-Nga, cộng với sự va chạm cá nhân với các viên chức Mỹ, cũng khiến họ Ngô tìm cách nới rộng hơn sự kềm tỏa của Mỹ. Phong trào chính trị đang lên trong thời điểm này là phi-liên-kết, và trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga, do Pháp và India đi hàng đầu. Ngoài ra, Trung Cộng thường tuyên bố theo đuổi chính sách “sống chung hòa bình” [peaceful co-existence], trong khi Mao đưa ra “thuyết” Thế Giới Thứ Ba, tức thế giới của các nước nghèo và cách mạng giải phóng khỏi ảnh hưởng các cường quốc.