- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Đồng hồ dừng lại từ 30 tháng 4-1975

18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 32139)


nguyen_mong_giac-dong_ho_dung_lai-content


Trong cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà, của Trần Mai Hạnh (đăng nhiều kỳ trên tuần báo Văn Nghệ từ số 12 ra ngày 18.3.2000), tác giả tưởng tượng ra cuộc đối thoại như sau giữa Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn 1 và viên Tổng lãnh sự Mỹ tại Đà nẵng:

“An Phran-xít xộc vào giữa lúc Trưởng đang hối thúc đám tay chân thân tín tiêu hủy tài liệu. Thấy An Phran-xít, Trưởng không trịnh trọng bước tới bắt tay như mọi khi mà chỉ cất tiếng chào:

- Xin chào Ngài Tổng lãnh sự! Tôi tưởng Ngài đã ra đi.

- Sân bay hỗn loạn. Không một máy bay nào lên xuống được. Người của tôi đi chưa hết. Không một ai giúp tôi. Tôi phải can thiệp và tụi lính của ngài đã xông vào hành hung tôi.

- Bây giờ tôi có thể giúp được điều gì, thưa Ngài Tổng Lãnh sự?

- Ông hãy ra ngay phi trường với tôi, ông trung tướng. Nếu không máy bay Bô-inh và máy bay vận tải không thể hạ cánh. Phó đại sứ Lê-man vừa điện nói Nhà Trắng lệnh trong vòng 12 giờ tới việc di tản người Mỹ và những người cần thiết khỏi Đà nẵng phải hoàn tất!

Trưởng giơ cả hai tay lên trời, lắc đầu:

- Không được đâu, Ngài Tổng Lãnh sự. Phi trường và cả thành phố này đã hỗn loạn. Không còn chỉ huy được nữa. Ngài có muốn bỏ mạng thì hãy ra đấy.” {Tuần báo Văn Nghệ, số 14, thứ Bảy 1.4.2000}

 

Người viết đoạn đối thoại trên đây không phải là một cây bút mới chập chững vào nghề. Ông là phóng viên mặt trận của Thông tấn xã VN (Hà nội) tại chiến trường Bắc Quảng Nam-Đà Nẵng những năm 1968-1970, sau đó là đặc phái viên của Thông tấn xã VN trong chiến dịch tấn công Sài Gòn tháng Tư 1975. Trần Mai Hạnh là Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam, nghĩa là một ký giả “có thẩm quyền”.

Tờ báo đăng đoạn đối thoại trên, cũng là một tờ báo “có thẩm quyền”. Tuần báo Văn Nghệ là cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam, một Hội có trên 700 hội viên, và được gia nhập hội không phải là dễ dàng.

Hai cái “thẩm quyền” lớn lao gặp nhau, rồi đẻ ra đoạn đối thoại mà một độc giả bình thường gốc Miền Nam đọc xong cũng cảm thấy có cái gì bất ổn, cái gì rất chối tai!

Phải! Rất chối tai, là cách xưng hô của viên Tổng Lãnh sự Mỹ và Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng, qua óc tưởng tượng của Trần Mai Hạnh. Tổng lãnh sự Mỹ có một lần gọi Ngô Quang Trưởng là “ngài” (không viết hoa), còn những lúc khác trong tiểu thuyết đều gọi vị Tư lệnh Quân đoàn 1 bằng tiếng “ông”. Còn Ngô Quang Trưởng thì lúc nào cũng gọi viên Tổng lãnh sự bằng tiếng “Ngài” (viết hoa). Những người lớn lên ở Miền Nam đều biết rõ trong ngôn ngữ giao tế hằng ngày, từ vĩ tuyến 17 trở vào, không ai dùng tiếng “Ngài” đầy khúm núm để thưa gửi trước những chức quyền cao hơn mình. Không phải người Miền Nam không sợ cấp trên, hoặc ở Miền Nam trước 1975 không hề có những bọn xu nịnh. Nhưng tiếng “Ngài” là một tiếng Việt đã lỗi thời, từ lâu không ai còn dùng nữa. Có nhiều cách nịnh nọt cho bề trên vừa lòng, nhưng tuyệt nhiên người Miền Nam không chọn cách dùng một cách xưng hô cổ lỗ chỉ làm cho bề trên khó chịu nhíu mày.

Không ai trách Trần Mai Hạnh viết đoạn đối thoại trên đây nếu ông viết như thế vào những tháng sau ngày 30.4.75. Trong chiến tranh, những người ở khác chiến tuyến khó lòng hiểu rõ kẻ thù. Nhưng Trần Mai Hạnh cài vào miệng Trung tướng Ngô Quang Trưởng tiếng “Ngài” đầy tự ti khúm núm, hai mươi lăm năm sau khi chiến tranh chấm dứt. Một phần tư thế kỷ đã trôi qua, người chiến thắng tự kiêu tự mãn nhất cũng có thời gian sống chung với đám đông chiến bại để thấy họ cũng có những ưu tư, lo nghĩ, vui buồn giống mình. Một ký giả hạng xoàng cũng ghi nhận được những năm đói kém lầm than sau chiến thắng tháng Tư, những hoang mang lo âu khi khối Liên xô và Đông Âu tan rã, cuộc di dân thầm lặng để tìm đất sống xáo trộn Bắc Nam để những ranh giới địa phương ngày càng mờ nhạt, phong trào vượt biển ào ạt kèm theo những thảm trạng trên biển Đông suốt thập niên 80...Rõ ràng đối với Trần Mai Hạnh, kim đồng hồ đã dừng lại từ ngày 30.4.75. Những gì đã định hình trong đầu óc ông trước ngày ông vào Sài Gòn đã bám chặt lấy ông, không cho ông thay đổi theo những thay đổi loại “trời long đất lở” trong suốt một phần tư thế kỷ. Những cái định hình qua tiếng “Ngài” ông gán cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng là gì? Là tinh thần tự ti mặc cảm trước người da trắng của chính ông, rồi ông truyền cái bệnh ấy lên những nhân vật mà ông xếp vào hàng kẻ thù. Đọc báo chí trong nước, điều đáng buồn là những lời lẽ như lời lẽ của Trần Mai Hạnh không phải hiếm. Ngược lại, nhan nhản. Căn bệnh không phải của một người, mà của cả một thế hệ.

Đồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật. Sửa đổi một chi tiết nhỏ trong bức tranh tĩnh vật ấy là xâm phạm lên cái gì thiêng liêng nhất của người lưu vong. Kho từ ngữ đóng cửa khóa kín, không cho phép những từ mới lọt vào. Tên phố chỉ gợi xúc động khi người đối diện nhắc đến cái tên cũ trước đây hai mươi lăm năm. Một tâm lý thông thường trong thế hệ người già ở hải ngoại: cái gì cũ đều quí giá, nhất là những cái cũ liên quan đến một thời vàng son của đời mình. Cho nên, mới có những ca khúc được tiếp tục ái mộ không phải vì giá trị tự thân của nó, mà chỉ vì nó là một thành phần không thể thiếu của bức tranh tĩnh vật quê hương. Rõ ràng đồng hồ đã đứng lại, và nhiều người không muốn biết những gì đã xảy ra trên quê hương. Họ đã có sẵn một hình ảnh quê hương, và không muốn biết, không muốn tìm hiểu một thứ quê hương nào khác.

Hiện tượng tái hiện những kiểu mẫu cũ của đời sống Miền Nam hoặc sinh hoạt của Sài Gòn trong đời sống mới nơi xứ người cũng là biểu hiện của tâm lý trì níu quá khứ ấy. Nhiều khiêu vũ trường ở Bắc Mỹ hay Úc châu vẫn trương bảng hiệu Tour dõ Ivoire, Queen Bee, Maximõs. Tiệm phở thì Tàu Bay, Hiền vương, Xe Lửa, Quyền, Công Lý. Tạp chí thì Văn, Khởi Hành, Văn Học... Các hội ái hữu cựu học sinh trường này trường nọ ra đời, từ trường qua đến lớp, đến niên khóa. Một tập kỷ yếu cựu học sinh có nội dung bài vở, hình ảnh tùy thuộc vào thế hệ chủ trương biên tập của tập đặc san ấy, như một lát cắt từ khối kỷ niệm lớn. Những cựu học sinh khác thế hệ đọc tập kỷ yếu thấy như người vào lầm nhà lạ: thầy khác, bạn khác, những trò tinh nghịch cũng khác.

Cùng một hoài niệm về quê hương, nhưng hình ảnh quê hương mang theo trên đường ly hương khác nhau, nên cộng đồng người Việt hải ngoại sống và sinh hoạt theo từng nhóm, các nhóm ấy càng ngày càng thu hẹp lại. Không phải ngẫu nhiên mà hai người Việt xa lạ gặp nhau lần đầu, câu hỏi làm quen trước tiên là hỏi năm rời quê hương. Đó là một cách định vị để dễ dàng tìm lời thích hợp mà trao đổi về sau. Không cùng chia nhau một thứ quê hương, khó ăn khó nói lắm!

Những tranh luận, đả kích, chống đối, thậm chí chửi bới nhau thậm tệ trên báo chí, đài phát thanh, Internet...trong cộng đồng người Việt, phần lớn là do không nhìn về cùng một thứ quê hương, nên khác nhau trong cách tìm kiếm một giải pháp, một đường lối. Họ ngồi với nhau trong cùng một phòng, nhưng đồng hồ trên cổ tay họ đã ngưng chạy ở những thời điểm khác nhau, thì đồng ý làm sao được về một “lịch trình hành động”! Có cái gì bi thảm, như cuộc tranh luận hào hứng và sôi nổi giữa hai người điếc!

Cùng đeo đồng hồ đã ngưng chạy từ lâu, nhưng giữa ông Trần Mai Hạnh và những nạn nhân của ông có điểm khác nhau: những người Việt ly hương bất đắc dĩ đáng được thông cảm, còn ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông thì đáng giận, đáng trách. Vì quê hương đang ở trong tầm tay của ông. Đám đông thấp cổ bé miệng mong mỏi được những nhà báo, nhà văn “có thẩm quyền” như ông hiểu rõ hoàn cảnh của họ, ước vọng của họ hôm nay, tháng Tư năm 2000. Nhưng ông suy nghĩ, viết lách như một người sống hai mươi lăm năm về trước. Ông không thông cảm nổi với những người đã từng chống ông trong chiến tranh, đấy là quyền của ông. Nhưng hình như ông cũng không thông cảm được với lớp trẻ tuổi trên dưới ba mươi hiện nay, là một nửa đám đông đang ở dưới quyền sinh sát của bạn bè ông. Trong lúc thế giới thay đổi từng ngày nhờ tiến bộ chưa từng có của khoa học kỹ thuật, quê hương Việt Nam lại “được” những người mang đồng hồ đã ngưng chạy từ một phần tư thế kỷ lãnh đạo. Bi kịch thực sự của dân tộc là ở chỗ đó!

 

 

NGUYỄN MỘNG GIÁC

Viết vào tháng Tư năm 2000,

trích “Nghĩ về Văn học Hải ngoại”, nxb Văn Mới 2004

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 35449)
“Bỏ Đảng hay là bỏ con Lan?”. Ông Kí trừng mắt nhìn thằng Rừng . Đời thằng Rừng chỉ có hai người mà nó thương yêu nhất . Đó là ông Sáu và con Lan . Ông Sáu thì chết rồi . Còn con Lan, chồng không về, mà cái bụng cứ lùm lùm ngày càng to biểu nó bỏ sao đành, vả lại như lời ông Kí nói . Cái chính trị ấy đâu phải là của nó . Nó là rừng, là mủ chai, là trái ư .. Thôi thì cứ cởi bỏ cái áo xã đội trưởng, mà dẫn con Lan về ngôi nhà cũ sinh sống. 
19 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 59721)
Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ qua ba giai đọan trong vòng ba năm tới và chế độ của nó sẽ cáo chung vào năm 2016, theo tạp chí Frontline của Hương Cảng, một tờ báo tập trung phân tích tình hình chính trị Hoa lục.
19 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 39751)
Chưa khi nào, từ lúc vung khẩu hiệu Hữu nghị Việt-Trung, Đảng cầm quyền ngậm đắng nuốt cay 16 chữ vàng như lúc này. Bao nhiêu khiếp nhược quỵ lụy dâng đất dâng thác với ôm hôn thắm thiết, vô ích. Đàn áp dân biểu tình chống Tàu để chứng tỏ hòa hiếu, vô ích. Gửi sĩ quan Việt sang cho Bắc Kinh tập huấn, ưu tiên các dự án thầu cho công ty Trung quốc, ngay cả chấp nhận điều kiện mai hậu nguy hiểm: cho phép Hoa kiều sinh sống đông đúc không cần chiếu khán trong các đặc khu, vẫn vô ích .
19 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 31243)
C ửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng được Nxb Văn Nghệ phát hành tại Hoa Kỳ lần đầu tiên năm 2000, đây là lần tái bản thứ ba ở hải ngoại nhưng là lần đầu tiên có sự hợp tác của một nhà xuất bản trong nước.
15 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 29500)
Lúc này, đám đông xuất hiện ở các con đường đã nhiều hơn. Họ đang cần cái gì đó để giải tỏa, cần một cái gì đó để đập phá, thể hiện sức mạnh của mình. Vừa chạy vừa điểm lại các sự kiện, Văn nhắc tôi rằng phần lớn những người có vẻ như chỉ huy, hướng dẫn mọi người, đều chạy trên các xe có biển số 36 – số Thanh Hóa. Tôi sực nhớ đến một người bạn ở Bình Dương đã nhắn tin nói với tôi về các cuộc bạo động xảy ra, một cách buồn phiền rằng “người Bình Dương không tệ như vậy, phần lớn các người gây bạo loạn đều đi xe số ba mươi mấy”. Quả là như vậy thật. Những người chạy trên những chiếc xe có số như 36, đều trang bị kỹ lưỡng bằng ống sắt, xà beng, cờ trống… như một cách có tính toán trước.
15 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 29254)
L úc 10g sáng ngày 14/5, Tôi cùng 2 người bạn là Thiên Văn và Phạm Thy quyết định chạy xuống khu Gò Vấp, gần Lái Thiêu, khi nghe nghe tin các công ty ở khu Tân Thới Hiệp bắt đầu có đình công. E rằng sẽ có đập phá và bạo động, chúng tôi không dám mang theo nhiều máy móc, chủ yếu là mang theo sự liều lĩnh, để tìm hiểu vì sao lại có những chuyện đập phá và cướp bóc như trên các trang mạng xã hội mô tả.
14 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 34193)
LTS: Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu, Hoàng Hải Lâm, sinh năm 1979, hiện đang sống và làm việc tại Quảng Trị, Việt Nam, đã có một số truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ, Lao động, Tiền Phong.... Với lối viết lạnh, khô khốc, truyện ngắn “Sông Tô Châu” của Hoàng Hải Lâm như vết cắt sâu về nỗi bất hạnh và đớn đau…Xin mời quí bạn đọc cùng chúng tôi đi vào không gian truyện "Sông Tô Châu". (Tạp Chí Hợp Lưu)
12 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 35520)
N hấn chìm nó xuống biển, lũ tàu đỏ Lũ âm binh, một lũ cáo chồn Bây sẽ chết dài và chẳng mồ chôn Lũ tàu đỏ, bầy quân dòi bọ.
12 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 34667)
C on cá Lớn cai trị ao lớn, con cái Nhỏ cai trị ao nhỏ, hai ao riêng biệt rành rành từ ngày hình hành nên trái đất nhưng con cá Lớn muốn chiếm cái ao nhỏ nên gọi tướng quân cá Quả( miền Nam hay gọi là cá Lóc) vốn là vị tướng hung hăng đem quân sang đánh chiếm.
07 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 36872)
đ ứng đợi. cuối đường mình em mây nghiêng. chiều vàng phụt tắt nửa khuya trăng gấu bên thềm tàn mộng. khói bay dờ dật