Trong tiết mục 180 giây, Bích Châu gởi đến quý vị một
phóng sự ngắn về nhà văn Nguyễn Mộng Giác, người vừa ra đi trong sự tiếc thương
của bằng hữu. Mời quý vị theo dõi trong phóng sự sau đây (video 3 phút/ xin bấm vào hình để play video)
Con đường thơ của
Nguyễn Lãm Thắng có nhiều bước chuyển. Sau “Điệp ngữ tình”, “Giấc mơ buổi sáng”
(333 bài thơ thiếu nhi), anh thử nghiệm, gieo hạt giống thơ của mình vào thế
trận khác: thế trận đời. Thế trận này đã đánh dấu tiếng nói riêng cho
“họng đêm” [ *] trong hành trình sáng - tạo - thi ca
của anh. Anh gần như đoạn tuyệt hẳn cái nhìn trong trẻo của “Điệp
ngữ tình”, cái hồn nhiên thơ trẻ của “Giấc mơ buổi sáng” để ném vào
“họng đêm” cái nhìn từ góc độ
người mù và “có thể nói nhiều về điều không thể nói”.
Đ àn chim với những con Rose breasted màu nâu nhạt, ngực đỏ;con
Western King with fledgling cũng màu nâu nhưng cái cái ngực vàng hườm;
con Red headed woodpecker mình gọi là chim gõ kiến có cái đầu màu đỏ,
con Indigo Bunting tròn như con sáo
quê nhà, nhưng lại xanh biếc như da trời. Tất cả bọn chúng, mỗi buổi
sáng, theo nhau về ríu rít trong vườn nhà tôi...
N guyễn Phi Khanh sinh năm 1355 và mất năm 1428[1] (có thuyết nói ông
sinh năm 1336, mất năm 1408[2]), quê ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây (có
thuyết nói ông còn có quê thứ hai ở Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương). Ông tên
thật là Nguyễn Ứng Long, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống võ tướng.
Nhưng ông lại là người say mê văn chương...
Tôi chìm vào một
giấc mơ, giấc mơ có những sợi dây bé xíu đan vào nhau thành những mắt lưới. Tôi
đi tìm một thế giới, nỗi đau oán thù bị xóa bỏ, chỉ còn tôi với thế giới ấy.
B ài
này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người
là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói
riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân
dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc
tối hay góc khuất, luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 ...
Bây giờ đã bước sang một ngày khác một ngày như và không như mọi ngày không còn nợ nần nào để tính sổ không còn niềm vui nào để cho đi hay giữ lại nỗi buồn...
S au hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những
đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam.
Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy
ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác
mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của
Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.
Một trong những vấn nạn, nếu không phải nghi án, lịch sử cận đại còn gây nhiều tranh luận là vấn đề âm mưu ve vãn [flirtation] Cộng Sản Hà Nội của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1897-1963) trong hai năm 1962-1963. Nhiều học giả thế giới đã cố gắng đưa ra những giải thích về vấn đề này. Người cho rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ [no longer be rational] nữa trước áp lực Mỹ. (1) Người cho rằng họ Ngô chỉ muốn blackmail hay chơi một ván bài poker với Mỹ. (2) Người cho rằng họ Ngô thực sự muốn nói chuyện với miền Bắc, (3) và nếu không có cuộc đảo chính 1/11/1963, Cộng Sản đã chiếm miền Nam vào cuối năm 1963.
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, các viên chức VNCH liên tục thúc dục Pháp can thiệp và yểm trợ. Ngày 21/12/1961, Đại sứ Phạm Khắc Hy gửi thư cho Charles Lucet, ngỏ ý muốn liên lạc với Pháp. Hơn nửa tháng sau, ngày 7/1/1962, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu gặp đại diện Pháp, xác nhận ý muốn liên lạc. Trương Vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc Hội, cũng tiết lộ với giới ngoại giao Pháp ở Sài Gòn là Nhu muốn Pháp tái khẳng định lập trường, vì Sài Gòn có cảm tưởng Paris đang nghiêng dần về phía Hà Nội.( 152)
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.