- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Thơ Đậu Sỹ Nguyên

13 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 111041)


mauhoacaitrang

LTS: Lần đầu cộng tác cùng Tạp Chí Hợp Lưu. Đậu Sỹ Nguyên là sinh viên K11 Viết Văn Nguyễn Du - Đại Học Văn Hoá Hà Nội.

Chúng tôi hân hạnh gới thiệu những sáng tác đẹp như "màu hoa cải trắng" của Đậu Sỹ Nguyên đến với quí văn hữu và bạn đọc Hợp Lưu.

TCHL


Khi màu hoa cải trắng

Tôi đã ngủ quên bên một Hà Nội không đèn
Long Biên thức gầy bao nhiêu đêm?
Một. Hai. Ba. Bốn. Năm…., “N” thùng rác trắng
Bãi tắm tiên mùa hoa ngô rụng
Mặc kệ sóng nồng nàn hay tưng tửng
Những người đàn ông thản nhiên quấn riết lấy sông.

Dấu chân trái dấu chân phải đuổi nhau, dù chẳng giống nhau chạy đi gặt ngày đông

Mùa thất bát gặt toàn cỏ dại
Hoa cải củ thì không vàng
Sao gánh được trở trăn ngày ở lại
Dấu chân trước không tin nên cứ đi tìm mãi
Dấu chân sau khờ dại
Mải mê ngắm bùn nâu. Em bảo rồi, hoa cải có vàng đâu!

Thơm cơm trắng bay lên. Vạn chài bay lên. Phù sa chìm rất sâu

Áo cởi
Vỡ tung giá rét giữa trời

Ô kìa! Bừng bừng phía xa…

Tự tưởng tượng ra
Một rạng đông sắp bắt đầu lúc ngày đòi đi ngủ
Ngụp lặn ngược dòng cánh tay trần mệt lử
Mặt trời chắc có về nữa đâu mà sao mắt em chợt có màu của lửa

Cháy


Cháy rồi em lặng im…


Đừng hát nữa

Hoặc hát bằng trái tim
Tốt nhất em hãy nhắm mắt, nhưng đừng ngủ
Kì lạ em những chập chờn khi đó
Nước mắt tan
Nước mắt đỏ
Nếu thế, em chỉ có thể kéo lưới buông câu bằng đổ vỡ
Khúc hát giờ này là ngôn ngữ của sương.


Mùa khác nhau


Em hỏi đêm về từ đâu

Vĩ cầm đêm vút lên từ chiếc lá
Chiếc lá khô thành mùa đông tơi tả
Em cầm và tung lên trời
Chiếc lá không rơi, mùa đông cũng không chịu rơi


Em hỏi đêm về từ đâu

Từ chạng vạng đời em hay từ khi mắt người còn đỏ
Con đò chiều đựng gió
Vẽ hơi sương rất mơ màng
Nhưng đường nét lại vọt vàng cay và xanh xao đắng như vị của những nụ hoa độc lừa dối

Em hỏi đêm ngỡ ngàng

Đêm về từ xào xạc
Bước chân đêm rất khác
Bước chân em rất gần
Bàn chân đi cố khẽ để vết xước không chạm vào cỏ nhưng vẫn làm cỏ tan ra

Em

Nhặt một mảng vỡ của cỏ
Và đứng lên …
Nhưng yêu thương thì ngủ quên
không bao giờ dậy nữa
Tháng năm chảy từ đầu
xuống vai
rồi xuống cổ
chảy vào trái tim em khắc khổ
ngước mắt lên tìm phép màu

không chờ đến mùa sau

em già cỗi gốc tre
còn ngày hôm qua thì đi mất …



Người đi tìm biển


Đắng ngắt em trong ngày thì nhạt

Em nếm em
Xác thịt
Chẳng thấy vị của mình
Tự hỏi
Và ngửa bàn tay lên trời
Bầu trời đổ nhào
rồi lật úp
Mây thì tan chảy thành nắng rất vàng. Trong khi nắng thì mải chơi cùng nỗi buồn riết mênh. Và trên đỉnh của ngày con chim thì lặng im đi tìm niềm vui khản tiếng.Tiếng hót lạc điệu

Không gọi được mặt trời trở lại.


Em thất thểu đi gọi về mặt trời trong tự mình biết khóc và lúc nào thì tự mình biến mất.


Em không biết.


Mặt trời không nghe.


Hồng dương đỏ khóe trong mắt biển

Mải mê đi
mải mê kiếm
Tự lúc nào em thành loài cua bể đi ngang
vẽ
cố vẽ những dấu chân vào lòng biển
Biển cười
Em không khóc được nữa.
Cho đến tận cuối ngày thì em bắt đầu cố nhẩm lại khúc hát ngàn xưa. Rồi mỗi ngày em sẽ nhớ ra từng lời. Và, em sẽ lại hát ca. Khúc hát của những người đi tìm biển.

 

Đậu Sỹ Nguyên

(Hà nội 2011)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 94518)
Trên trang văn hóa báo Le Monde hôm nay có bài giới thiệu về một cuộc triển lãm ảnh của phóng viên ảnh chiến trường người Pháp Henri Huet về cuộc chiến tranh Việt Nam với Mỹ qua bài viết: "Chiến tranh Việt Nam : Những hình ảnh, bạn hữu và cái chết".
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 87434)
C húng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ không trông thấy trên khuôn mặt, trong đôi mắt, nhưng ở những giấc mơ không bao giờ tắt. Tết Giáp Tuất. Tôi về sống ngôi nhà của Quý, phía nam phần lục địa. Trái đất xoay như thỏi đá cứng, những cạnh gai góc cắt vào chốn vô hình. Mỗi trưa, tôi với Quý và Chiến - cũng một người bạn ở nhờ - bầy những tiệc rượu đón bắt những vô hình mà cả ba đều linh cảm rất rõ, theo sóng của cây rừng tràn đến tận thềm. Cả một triền núi lươn lướt tắp đến bàn rượu. Cơ ngơi của Quý to lớn sừng sững.
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86659)
H ồ Đình Nghiêm, sinh ở Huế. Làm thuyền nhân trôi giạt qua Hồng-kông năm 1979. Định cư ở Montréal từ 1980. Viết lai rai cho hầu hết các tạp chí xuất bản tại hải ngoại, cộng tác với Hợp Lưu ngày từ số ra mắt. Đã in bốn tập truyện ngắn...Chưa hề trở lại cố quận đìu hiu.
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 118137)
Đừng đánh thức giấc mơ tôi trong lúc ngửa mặt lên trời hứng những giọt mưa đêm tháng chạp với hình ảnh duy nhất là đôi mắt em.
24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86561)
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899- 2 tháng 7, 1961) là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Cách viết văn riêng biệt - biểu thị qua đặc điểm lối mô tả khiệm lời và khiêm nhường - cũng như những cuộc phiêu lưu và hình tượng công chúng của ông đã tạo nên nhiều ảnh hưởng cho nền văn chương hư cấu của thế kỷ thứ 20.
23 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 98404)
Chương trình phát thanh tiếng Việt hàng ngày của đài BBC, Anh Quốc, quen thuộc với người Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua, sẽ chính thức ngưng hoạt động sau buổi phát thanh cuối cùng vào Thứ Bảy 26 tháng 3 từ 14 giờ 30 đến 14 giờ 45 giờ quốc tế hay từ 9 giờ 30 đến 9 giờ 45 phút giờ Việt Nam.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 77782)
Hoàng Chính chuyển ngữ từ Peeling trong tập truyện "The Fat Man in History" của Peter Carey. Peter Carey, tiểu thuyết gia người Úc, sinh ngày 7 tháng 5, 1943, hai lần đoạt giải Man Booker với các cuốn "Oscar and Lucinda" (1988) và "True History of the Kelly Gang" (2001). Hiện Peter Carey dạy đại học tại New York.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86423)
Những cái chết sau quá khứ về sau vẫn tiếp tục tiếp diễn mãi cho đến tận bây giờ. Những cái chết trên biển, bên kia biển, và bên này đất liền.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 112470)
Tháng Mười chơi trò xếp đặt Những con rồng được tạc bằng xương người Những con rắn cong khô trên bếp than cời Dưới nền trời xám và khô Phố phường mạ bằng vàng mã Người người ướp lạnh.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 82349)
T rước năm 1975, mỗi dịp Tết âm lịch, văn gia và dân chúng miền nam thường làm lễ kỷ niệm chiến thắng Tết Kỷ Dậu (31/1/1789) của Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792). Đây là một trong những võ công vệ quốc lịch sử của dân tộc Việt chống lại âm mưu thôn tính của bắc phương từ ngày giành được độc lập năm 939–sau khi Ngô Quyền (898-944) phá quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng (theo Nguyễn Trãi, còn gọi là sông Vân Cừ), khai sinh ra một vương quốc mới, tức Đại Việt (từ năm 1054) hay Việt Nam (từ năm 1804). (1)