- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

VỀ HUẾ QUA THƠ VĂN CỦA THẾ HỆ KẾ THỪA

21 Tháng Giêng 202510:14 CH(Xem: 5846)
BIA TAN VAN HUE QUE HUONG DI DE MA NHO



VỀ HUẾ QUA THƠ VĂN CỦA THẾ HỆ KẾ THỪA

(Bài viết của GS TS, nhà văn Trần Kiêm Đoàn)

 

Trên nẻo đường Nam Bắc Việt Nam, những bước chân lãng tử của giới văn nghệ sĩ dừng lại đậm nét nhất với cả Hà Nội, Huế, Sài Gòn với nguồn cảm hứng sáng tác phong phú, nhưng nếu xét về số lượng tác phẩm và tầm ảnh hưởng thì có thể ghi nhận rằng:

 

Hà Nội đứng đầu với số lượng tác phẩm phong phú và đa dạng.

Sài Gòn tươi mới với những tác phẩm đầy màu sắc năng động.

Huế lắng đọng với những tác phẩm mang chiều sâu trữ tình và trĩu nặng tâm hồn.

 

Người sinh ra và lớn lên ở Huế cũng như khách thăm Huế đều có cùng cảm nhận tương tự về tầm nhỏ nhắn, cảnh quang núi sông thơ mộng, điệu sống êm đềm trầm mặc của xứ nầy; nhưng khác nhau là tâm lý đòi đoạn (Emotional Fragmentation in Psychology) mà chỉ có những người Huế rặt chân quê mới trải nghiệm “nắng cháy da cháy thịt, mưa héo úa tâm hồn” của vùng đất quê huơng độc ngự cảm quan từ thời thơ ấu. Nguồn tâm lý nầy là khởi điểm của dòng cảm nhận: “Huế là quê hương đi để mà nhớ; chứ không phải ở để mà thương”!

 

Một người Huế nào đó đã đi khắp “ba đồng bảy đội” (tầm xa trái ngược với “ba đồng bảy đọi”) mới thấu cảm hết câu hỏi: “vì răng mà lạ rứa? (xin trả lời “tại rứa chớ mần răng”) như một loại công án về ngôn ngữ đặc chất đất lề quê thói rất Huế!

 

Có dịp đến những vùng đất cổ tích từ đấu trường La Mã ở Ý, Kim Tự Tháp ở Ai Cập đến bến sông Tiền Đường ở Trung Hoa nơi còn đượm dấu chân luân lạc nàng Kiều của Tố Như… thì chỉ càng thêm nhớ Huế. Mãi cho đến khi đối diện với Bức Tường Than Khóc (Wailing Wall) của Do Thái ở Jerusalem vào tháng Ba năm ngoái, nhìn dòng người khóc lóc tiếc thương, nguyện cầu chí thiết dưới chân bức thành được cho là huyền nhiệm đã gần hai nghìn năm, tôi mới hiểu Huế để cảm nhận trực tiếp nguồn tâm cảm vì sao Huế đi để mà nhớ chứ không phải ở để mà thương vẫn còn mịt mờ giữa cảm xúc mông lung và lý giải rạch ròi.  Huế từng là Ô Châu Lạc Địa của Ma Hời vong quốc. Huế là dòng trung chuyển của hào khí dân tộc mở mang bờ cõi của tổ quốc tiến về Nam. Huế là kinh đô vương quốc đầu tiên trong lịch sử dân tộc thống nhất giang sơn từ Bắc vô Nam. Huế là cái bể cạn nhỏ bé chứa những ước mơ đại hải sông hồ. Nhưng hiện thực, Huế vẫn còn vất vả gieo neo đồng hành với bước chân thời đại. Hệ luận thuận tình mà nghịch lý “đi dễ nhớ, ở khó thương” mang dấu ấn Tâm Huế nầy thật không ngờ vẫn còn là dòng chảy luân lưu xuyên thế hệ.

 

Thật ngạc nhiên và cảm động khi từ bên này bờ đại dương vừa được đọc một tác phẩm của thế hệ đàn em: Huế, Quê Hương Đi Để Mà Nhớ; tác giả là Bùi Hoàng Linh, đang ở độ tuổi tiền trung niên, tam tứ thập, lại là một người chuyên ngành khoa học kỹ thuật (Kiến trúc sư). Thật thú vị khi đọc Bùi Hoàng Linh cảm nhận về ý nghĩa Nhà và Quê Hương:

 

“Huế bình thản ngày tạ từ mà đau đáu ngày đoàn viên. Huế để người ta đi xa ngái mà day

dứt thương nhớ cố quận khôn nguôi. Với tôi Sài Gòn là nhà mà Huế là quê hương!”

 

Quê hương không chỉ là nơi lai lịch của mình thuộc về mà còn là nơi ẩn dấu cảm xúc miên mật từ trái tim

như nhà thơ M. Darwish nói lên từ cảm xúc chân phương rằng, “mái nhà là nơi để sống nhưng quê hương là nơi nương náu của tâm hồn cho dẫu nghìn trùng xa cách (A home is a place where you live, but a homeland is where your heart belongs, even when you're far away."

 

Có chăng thiên nhiên là thành quách rêu phong của một nguồn tình cảm Huế đã nảy mầm và trấn ngự mà Bùi Hoàng Linh đã thể hiện trong tác phẩm, rằng:

“Những cơn mưa dầm như một món đặc sản đã làm cho tình cảm Huế ít phát triển hướng

ngoại mà thường hướng về chiều sâu của nội tâm, âm thầm mà chung thủy. Thế nên,

người ở lại thì vẫn năm tháng đợi chờ gót lữ hành của kẻ ‘khăn gói đi xa’. Người viễn xứ

thì luôn có một ‘góc Huế’ trong mớ hành trang của ký ức để luôn canh cánh trở về mỗi

khi thấy nhớ.”

 

Và, Huế đây rồi. Huế mang ngữ cảnh của Bức Tường Than Khóc Jerusalem qua cảm nhận của chàng tuổi trẻ văn nhân xứ Huế:

 

“Trên những dấu vết của đền đài dường như nghe được cả trăm năm với lời cỏ cây xa xưa

vọng lại ...Và mỗi lần về Huế tôi cứ có cảm giác như được chạm tay vào từng dấu rêu,

được đặt chân vào quá khứ. Cứ ngỡ như là một cuộc hành hương về lại với những ký ức

ngậm ngùi bởi Huế mang riêng mình một nét đẹp mà buồn, rất buồn. Cái buồn của Huế

không rõ ranh giới, không mang hơi hướng của lý tính vì thế mà nó lãng đãng như một

nửa câu thơ ...chỉ một nửa thôi, nửa còn lại chờ người cố xứ mang về xứ thâm trầm của

mưa, của nắng, của bỏng rát gió Lào mùa hạ.”

 

Quả nhiên không phải là sự tình cờ chợt bắt gặp Huế qua nắng hàng cau hay nàng áo tím qua cầu… mà bằng nguồn cảm xúc gieo mầm, đâm chồi và nở hoa trong tư tưởng nghệ thuật của Bùi Hoàng Linh khi tác phẩm đầu tay về Huế là một thi phẩm… đậm tình với Huế có nhan đề là Lời Thương Gửi Huế.

Cách viết của Bùi Hoàng Linh giàu cảm xúc và tinh tế: Văn phong giàu chất thơ, thấm đẫm tình yêu đối với Huế, nhưng không quá lụy về quá khứ mà luôn mang một sự trăn trở và hoài niệm sâu sắc. Đặc biệt là nét Huế thật hồn nhiên mà cũng rất nồng đượm, thâm cung:

 

“Cái mặt hiền khô của người Huế cũng như dòng sông không gợn sóng mà đáy sâu chỉ giữ lại cho riêng mình những gì riêng nhất...Tình Huế có cái chi đó thâm trầm, khiêm cung, lặng lẽ, chìm khuất. Để khi xa rồi, tưởng sẽ quên dần theo thời gian mà có đâu ngờ nỗi nhớ theo tháng theo năm đã hóa thành trầm tích, lắng đọng lại cái tình lắm khi như cái roi tre của tình cảm vừa đủ ngậm ngùi rưng rức, để rồi có người giữa phố thị không có ngõ sau vẫn luôn ngoái về quê mẹ.”

 

Huế đang chuyển mình cùng chung với tầm cao, hướng xa và độ nhanh của thời đại. Mong dáng xưa, hồn cũ của Huế sẽ không biến tướng với thời gian. Trong cuộc thế xuôi dòng không ngừng nghỉ thế hệ văn nghệ trẻ như Bùi Hoàng Linh sẽ không bị mất hút vì đi quá xa về phía trước; nhưng cũng không trơ vơ ngồi lại bên cầu. Cực đoan trong nghệ thuật sáng tạo văn học nghệ thuật thường không có chỗ đứng của dòng văn học nghệ thuật Huế.

 

Chúc mừng, cảm khái và khen tặng tác phẩm viết về Huế của Bùi Hoàng Linh.

      

California ngày 18-1-2025

Trần Kiêm Đoàn

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Năm 201911:22 CH(Xem: 29381)
Nghiêm Sỹ Tuấn là một trí thức,một kẻ sĩ dấn thân, một quân nhân gương mẫu, Anh là hình ảnh tuyệt đẹp của phục vụ và hy sinh. Anh chết quá trẻ trên trận địa Khe Sanh ở tuổi 31, thời gian của tích lũy và đi tìm vốn sống. Kiến thức và vốn sống đó chưa có thời gian để đơm hoa kết trái, những trang viết của Nghiêm Sỹ Tuấn chỉ mới là những bản nháp, anh chưa có tác phẩm lớn nhưng cuộc sống anh đã là một tác phẩm lớn cống hiến cho đời. Mang vóc dáng của một thư sinh nhưng Anh rất mạnh mẽ. Anh là một tượng đài đơn độc và cũng là một biểu tượng tuyệt đẹp trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Cuốn sách này ra đời muộn màng hơn nửa thế kỷ sau ngày Anh mất...
02 Tháng Tư 20199:41 CH(Xem: 9430)
THƯ MỜI Tham Dự Văn Nghệ Ra Mắt Thi phẩm “VỀ NGHE BÁT NHÃ CA” Thơ Lý Thừa Nghiệp *TẠP CHÍ HỢP LƯU (California) xuất bản. *Amazon phát hành toàn cầu.
07 Tháng Chín 20184:47 CH(Xem: 34683)
• Trích Lời vào của tác giả: “Dường như người cầm bút nào cũng được một thói quen văn chương nuôi nấng – Làm một vài bài thơ cho mình và viết một cuốn truyện để đời. Tôi trong vế sau của thói quen đó bao năm rồi, nay tới lúc. Khi chắp được ý tưởng, xây mạch truyện, tôi mới nhận ra rằng cuốn truyện để đời có thể là cuốn này; mà cũng có thể là cuốn sau, sau nữa, rồi sau nữa… Sách này, việc viết nó rất ngẫu nhiên, ngay sau một cơn mơ pha tạp, tôi lọc ra các điều có thể làm nên tiểu thuyết. Tôi có lý do để hiểu vì sao cuốn sách mang tên “Đẻ sách”. Tôi biết, bạn đọc rồi cũng sẽ có vài ba lý do để hiểu. Ví dụ, nội dung của nó, ngắn gọn, là về những – người – ăn – thịt – người – để – đẻ – ra – sách.”
07 Tháng Chín 20183:06 CH(Xem: 35554)
Đó là những bài thơ hiếm gặp trên đời này. Đó là thơ Lý Thừa Nghiệp. Đó là những dòng chữ làm chúng ta giựt mình ngay tức khắc. Như dường chữ nhảy ra khỏi trang giấy. Nhiều bài thơ của anh có sức mạnh làm tôi sững sờ, ngồi yên lặng lẽ, và dõi mắt nhìn cho tới dòng cuối bài thơ.
28 Tháng Tư 201812:46 SA(Xem: 34072)
Tiếng Việt là ngôn ngữ tôi viết và sáng tác khi tôi không còn thường xuyên ở quê hương Đất Mẹ. Ngôn ngữ ấy cho tôi khám phá và hiểu biết hơn về những địa lý khác nhau trên trái đất này giữa những giọng nói khác nhau, giữa những ngôn ngữ khác…. (Như Quỳnh de Prelle )
28 Tháng Mười Hai 20174:02 CH(Xem: 34096)
Tính lãng mạn của thi ca diễn tả cả hai thái cực, lúc hiện ra huy hoàng diễm lệ như bình minh như đầu xuân như tiếng sét ái tình; lúc tàn phai như rừng thu như hoàng hôn như tan vỡ tình yêu, đẫm buồn, sầu bi, thê lương. Mà mặt tích cực hay tiêu cực vẫn mang một vẻ đẹp lạ lùng.
27 Tháng Mười Hai 20171:20 SA(Xem: 35761)
Anh đưa nàng ra thăm lại đảo, lúc cùng nàng đứng dưới gốc dừa trên bãi biển gần Dinh Cậu, nắng ấm, gió rất nhẹ và sóng vỗ thì thầm, anh nhìn ra biển rộng, an bình, nghĩ đến những giấc mơ ngày nào. Trong đó có giấc mơ, mua được một hòn đảo nhỏ để cùng nàng sống những ngày huyền ảo trên đó. Đột nhiên bao nhiêu kỷ niệm cũ quay lại, từ ngày đầu tiên anh xách va-li đến đảo và cuối cùng là hình ảnh cặp sừng trên cát của con trâu rừng cuối cùng trên đảo bị bắn hạ ở một ấp xa. Con trâu này là con cháu của bầy trâu mà bà Kim Giao đã đem ra đảo mấy trăm năm trước trong thời Tây Sơn, con trâu cuối cùng mà anh đã cố đi tìm như đi tìm một huyền thoại, thì nay không còn nữa, và ‘Thiên đường đã mất’ của anh đã mất thật rồi
14 Tháng Tám 20171:54 SA(Xem: 36024)
Sau khi thành công với tác phẩm “Bên kia con chữ và nghệ thuật”, (nhận định, phê bình văn học), nhà văn Đặng Phú Phong đã trở lại với thi ca, qua thi phẩm “Mai tôi về ở mãi với hoang sơ”. Tôi không biết “Mai tôi về ở mãi với hoang sơ”, là thi phẩm thứ bao nhiêu của Đặng, được ấn hành? Chỉ biết dường như thơ mới là cây bài chủ của cuộc trường chinh chữ, nghĩa, càng lúc càng lấp lánh nơi tác giả này.
13 Tháng Bảy 201711:35 CH(Xem: 33874)
Tạp chí Hợp Lưu xin giới thiệu đến quý thân hữu tập thơ LÒNG NÀY GỞI MÂY BAY của nữ thi sĩ Triệu Minh.
03 Tháng Mười Một 20161:03 SA(Xem: 35642)
Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến mất ngày 18 tháng 12 năm 2001, trong sự thương tiếc của rất nhiều bằng hữu và bạn đọc. Vậy mà cũng đã 15 năm kể từ ngày anh mất. Sau khi anh mất, một dự án Sách Tưởng Niệm Như Phong được dự trù ra mắt trong ngày giỗ đầu của anh nhưng rồi do một số lý do khách quan cũng như chủ quan dự án ấy chưa hoàn tất như mong đợi.