Trầm Hương chuyển ngữ
Pablo Neruda [1904-1973] tên thật là Netftalí Recardo Reyes Basoalto, sinh ra vào mùa hạ năm 1904 tại một thị trấn nhỏ miền quê Chí Lợi trong một gia đình nghèo khó. Cuộc đời của cậu bé Recardo tưởng chừng phải xa lánh bút mực vì cha làm công nhân hỏa xa và mẹ làm giáo viên chết sớm vì lao phổi một tháng sau khi cậu chào đời. “Tuổi ấu thơ của tôi là những đôi dép ướt, là thế giới của gió và lá rừng, của những thân cây gẫy phủ dây leo”, như Neruda sẽ kể lại về sau, khi nhận giải Nobel Văn Chương 1971.
Là một cậu bé cô đơn với tính tình nhút nhát, nhưng ham mê đọc sách, năm mười tuổi Recardo bắt đầu tập làm thơ. Năm lên mười ba, bài thơ đầu tay của Recardo được đăng tải trên nhật trình "La Mañana". Sau đó, anh cộng tác với báo văn học "Selva Austral" dưới bút danh Pablo Neruda, có lẽ để tránh sự chống đối của người cha đã không bao giờ chấp nhận việc anh theo đuổi con đường văn chương. Crepusculario [Hoàng hôn], thi tập đầu tiên của Neruda xuất bản năm 1923, phản ảnh sự huyền ảo và thanh nhã của trường phái tượng trưng. Đến thi tập thứ nhì năm 1924, Twenty Love Poems and a Song of Despair [Hai mươi bài thơ tình yêu và một bài hát tuyệt vọng], Neruda lập tức từ một nhà thơ chưa được biết đến trở thành một tài thơ vang danh thế giới. Về sau, thi tập này trở thành một trong những thi tập của Neruda được ưa chuộng nhất và được dịch sang nhiều ngôn ngữ nhất, bán được trên một triệu quyển vào đầu thập niên 60.
“Hai mươi bài thơ tình yêu và một bài hát tuyệt vọng” đã gây chấn động vì sự ham muốn thân xác mang phong cách mãnh liệt, khác hẳn với truyền thống lãng mạn đương thời: "Anh đã đi đánh dấu bản đồ của thân thể em/ với những dấu thập lửa. / Miệng anh đi ngang qua: một con nhện, cố gắng ẩn trốn. / Trong em, đằng sau em, nhút nhát, thúc đẩy bởi cơn khát. " Với hình ảnh nối tiếp hình ảnh đập mắt, Neruda vẽ hải đồ những chuyển động đại dương của niềm đam mê, liên tục triệu tập hình tượng biển và thời tiết: "Trên mọi hướng anh nhìn thấy vòng eo sương mù của em, / và sự im lặng của em dồn vào thế cùng những giờ anh đau đớn; / nụ hôn của anh cắm neo, và sự ham muốn ướt át của anh làm tổ / trong em với cánh tay em bằng đá trong suốt." Sự khác biệt này đã gây chú ý, nhưng chính giá trị kỹ thuật và xúc cảm mật thiết đã khiến thi tập được yêu chuộng dài lâu. Thi tập bắt đầu bằng cường độ mô tả cảm xúc khoái lạc mạnh mẽ rồi chuyển dần sang uể oải, rồi xa cách trong những bài sau. Đến bài thơ cuối cùng, "Một bài hát tuyệt vọng", xoáy trên nỗi trầm cảm vô vọng đắng gắt.
"Thân thể của người đàn bà" là bài thơ thứ 1 trong "Hai mươi bài thơ tình yêu" và "Ánh sáng khuất sau đường chân trời" là bài thứ 16.
TRẦM HƯƠNG
California tháng 5-2010
Thân thể của người đàn bà
Thân thể của người đàn bà, đồi trắng, đùi trắng,
Em trải như một thế giới trong thái độ khuất phục.
Thân thể hoang dã quê mùa của anh cày xới em
và dấy lên từ những độ sâu của lòng đất.
Anh đã đi một mình như một đường hầm. Chim chóc trốn chạy anh,
Anh đã bị xâm chiếm bởi uy quyền của đêm.
Để tồn tại anh đã rèn em thành vũ khí,
giống một mũi tên trong cung, giống một hòn đá trong chiếc ná.
Nhưng giờ trả thù điểm, và anh yêu em.
Thân thể của da, của rêu, của sữa nồng nàn liên tục.
Ơi đôi bầu vú! Ơi đôi mắt xa vắng!
Ơi những hoa hồng kín! Ơi âm thanh em chậm buồn!
Thân thể của người đàn bà của anh, anh sẽ bền bỉ trong ân huệ của em,
Cơn khát của anh, nỗi đau vô tận, con đường không dứt khoát!
Lòng sông tăm tối nơi cơn khát vĩnh viễn trôi,
và sự mệt mỏi trôi theo, và ưu phiền vô tận.
Ánh sáng khuất sau đường chân trời
Khi ánh sáng khuất sau đường chân trời em là áng mây
Mang hình dạng và sắc màu y anh yêu thích.
Em là của anh, của anh, người đàn bà với đôi môi ngọt
và sự sống của em chứa muôn vàn mơ ước của anh.
Ánh sáng linh hồn anh nhuốm đôi chân em,
vị vang chua cũng dịu ngọt trên môi em,
hỡi người đoạt hồn anh trong bản đàn chiều,
những giấc mơ đơn độc thèm muốn xiết bao em thuộc về anh!
Em là của anh, của anh, anh chạy hét vang trong gió chiều,
Và gió đưa vút xa âm thanh anh cô độc.
Người đàn bà săn mồi trong đáy mắt anh,
em tước đoạt âm thầm bằng ánh mắt ướt về đêm.
Em bị giam trong lưới nhạc của anh, em yêu,
và những lưới nhạc rộng bằng cả bầu trời.
Linh hồn anh nảy sinh trên viền mắt em tang tóc.
Trong đôi mắt tang tóc ấy vùng mơ tưởng bắt đầu.
Body of a woman
Body of a woman, white hills, white thighs,
you look like the world in your attitude of giving.
My savage peasant body plows through you
and makes the son surge from the depths of the earth.
I went alone as a tunnel. Birds fled from me,
I was invaded by the power of the night.
To survive myself I forged you like a weapon,
like an arrow in my bow, like a stone in my sling.
But the hour of revenge strikes, and I love you.
Body of skin, of moss, of ardent, constant milk.
Ah the chalices of the breasts! Ah the eyes of absence!
Ah the roses of the pubis! Ah your voice slow and sad!
Body of my woman, I will persist in your grace,
My thirst, my infinite anguish, my indecisive path!
Dark riverbeds where eternal thirst follows,
and fatigue follows, and infinite sorrow.
In My Sky At Twilight
In my sky at twilight you are like a cloud
and your form and colour are the way I love them.
You are mine, mine, woman with sweet lips
and in your life my infinite dreams live.
The lamp of my soul dyes your feet,
the sour wine is sweeter on your lips,
oh reaper of my evening song,
how solitary dreams believe you to be mine!
You are mine, mine, I go shouting it to the afternoon's
wind, and the wind hauls on my widowed voice.
Huntress of the depth of my eyes, your plunder
stills your nocturnal regard as though it were water.
You are taken in the net of my music, my love,
and my nets of music are wide as the sky.
My soul is born on the shore of your eyes of mourning.
In your eyes of mourning the land of dreams begin.
Pablo Neruda, 1924
Trầm Hương chuyển ngữ, tháng 5-2010
[References]
http://www.biographybase.com/biography/Neruda_Pablo.html
http://www.britannica.com/EBchecked/topic/409558/Pablo-Neruda
http://nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/1971/neruda-bio.html
http://www.januarymagazine.com/artcult/neruda.html