Tập "Ta thấy hình ta những miếu đền" cô đọng những lời tài tử của một thi nhân đã bỏ thơ theo văn. Cuối đời, do tình cờ một ông chủ nhà xuất bản yêu cầu, Mai Thảo góp lại thành tập mà có thơ Mai Thảo như món quà muộn đến từ một đời vừa chín.
Trong văn, Mai Thảo luôn luôn đứng ở vị trí trên cao nhìn xuống: Hà-nội ở dưới chân, Hồng-Kông ở dưới chân... Trong thơ, ông lên cao nữa, thoát khỏi cõi đời, bay trên chín tầng mây, sải xa muôn dặm, nhìn về nhân thế, soi xuống chính mình, và thấy:
"Sau những phố xá chập chùng tới những ngã ba nghìn phương. Sau những ngã ba viễn phương tới những tàng cây lục lục. Sau những tàng cây trùng trùng tới những cánh rừng điệp điệp. Sau những cánh rừng hát suối tới những sa mạc cát thức. Sau những sa mạc cát bay tới những con đường dặm hồng. Sau những dặm biếc dặm hồng tới những bờ bãi mù sương. Sau những bãi bờ trăng soi tới chín cửa biển thần phố. Sau chín cửa biển thần phù tới năm đại dương sóng đẹp. Sau năm đại dương vô bờ tới đường chân trời vô tận.
Sau đường chân trời là không.
Cõi không. Không còn gì nữa hết.
.....
Dưới nữa là không.
Cõi không. Không còn gì nữa hết.
Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là
thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xoá bỏ tận cùng. Từ xoá bỏ chính nó. Tôi xoá bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ." (Bờ cõi khởi đầu)
Một tuyên ngôn thơ vừa rạng như một hành trình vào hư vô, đi đến tận cùng hủy diệt: tôi xoá bỏ tôi mới có thơ. Thơ sinh ra từ sự diệt ấy. Mai Thảo đã đi đến sơn cùng thủy tận: hủy thể của hủy thể để có thơ, và do đó thơ ông là những dòng khởi thủy của một bắt đầu. Mỗi thơ nơi ông là mỗi giáng sinh, và giáng sinh nào cũng duy nhất. Thơ Mai Thảo, ở những chỗ hủy diệt tận cùng đó luôn luôn độc đáo và thiết tha. Là những khắc đời cắt ra đã khô máu. Là những cô đơn trùng lấp đã lên men. Là sự thăng hoa của đối thoại giữa chính mình và bệnh tật. Là những tự do khuất biệt trong vong thân, đơn lạc. Tất cả đều đã hư hoại, kể cả bản thể. Bởi tất cả đều đã mất mình trong sa đoạ, không gì cứu vãn nổi, trừ thơ. Và như thế, Mai Thảo liên tâm với Sartre trong nhận thức thân xác là buồn nôn, kẻ khác là địa ngục. Con người chỉ còn một cứu cánh duy nhất là sáng tạo. Là thơ. Thơ là cõi tận cùng của hủy diệt. Thơ tái sinh, tái tạo.
Tạp Chí Hợp Lưu
Không tiếng
Sớm ra đi sớm hoa không biết
Đêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in cái bóng gầy
Thằng viết mướn
Những trang đời viết còn dang dở
Sẽ có bàn tay ấy viết dùm
Ngón cái sang trang và ngón út
Viết dòng vuốt mắt lúc lâm chung
Chuyến
Điểm cuối đường sương, điểm hiện dần
Hiện cùng điểm mất ở vong thân
Đáy xe, tử điểm vô hình tướng
Chết rũ theo người ở dưới chân
Trừ tịch
Bước một mình qua ngưỡng cửa năm
Nhân gian tịch mịch tiếng mưa thầm
Chợt đâu vẳng tiếng gà lai kiếp
Báo vẫn đêm dầy ở cõi âm
Lẻ một
Sách một dẫy nằm trơ trên giá
Cạnh người thân thế cũng trơ trơ
Sách, người hai cõi cùng hư hoại
Nơi một ngàn chương thiếu một tờ
Có lúc
Có lúc nghĩ điều này điều nọ
Cảm thấy hồn như một biển đầy
Có khi đếch nghĩ điều chi hết
Hệt kẻ ngu đần cũng rất hay
Tinh tướng
Những ảnh hình thân cũng thoáng qua
Người gần ta nhất cũng muôn xa
Tấm gương trước mắt nhìn trân trối
Tinh vẫn còn đây tướng đã nhoà
Nghe đất
Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ẩm lạnh da người cũng thơm
Đất lên hương, thấm qua hồn
Nghe Vui thoáng đến với Buồn thoảng đi
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương ngợ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang
Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa ráng nắng vàng trôi qua
Linh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân
Quá khứ
Đôi lúc những hồn ma thức giấc
Làm gió mưa bão táp trong lòng
Ngậm ngùi bảo những hồn ma cũ
Huyệt đã chôn rồi lấp đã xong
Dỗ bệnh
Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện
Ta lại cùng cơ thể chuyện trò
Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn
Nó nghĩ sao rồi nó lại cho
Bệnh ở trong người thành bệnh bạn
Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản
Thành một đôi ta rất đá vàng
Chờ đợi nghìn năm
Ta đợi nghìn năm tới trước thềm
Đón về huyễn ảo đã cùng tên
Song loan chưa tới trong chờ đợi
Đành với hoàng hôn sống nhá nhem
Tối sáng không phân nhọ mặt người
Là giờ xuất hiện của bầy dơi
Rợp trời những cánh bay hôi hám
Trên lối ta đi tới cuối trời
Quạ cú ào theo kín một bầy
Cáo chồn mai phục mỗi hang cây
Dăm con ma xó tanh mùi đất
Cống rãnh chui luồn cũng bủa vây
Bàn độc chen chân chó nhẩy ngồi
Mồ chiều xanh lạnh lửa ma trơi
Dậu chưa đổ đã bìm chen lấn
Huyệt chửa đào xong đã quỷ cười
Ta cúi đầu đi khỏi bãi đời
Như vì sao mỏi muốn lìa ngôi
Như thuyền xa bến vào muôn biển
Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi
Làm người xưa bước qua lầy lội
Đường lội làm sao giữ được giầy
Giầy đã lấm rồi thôi để mặc
Trên lối đi về hướng Cửa Tây
Trước tượng
Chuá khổ hình trên gỗ đóng đinh
Nghìn sau tôi tới đứng im nhìn
Thấy trưa thả bóng từ thân tượng
Xuống nhói vai mình thánh giá in
Tả ngạn
Tả ngạn đời ta một nhánh hoa
Bên kia hữu ngạn vẫn thơm và
Hương bay thần chú qua lìa đứt
Mỗi tối bên này mỗi lệ sa.
Điểm tâm
Trà đựng trong bình trí nhớ câm
Rót nghiêng từng ngụm nỗi đau thầm
Hoà chung cùng ngụm đau trời đất
Là mỗi ngày ta mỗi điểm tâm
Ngũ tạng
Mùa đông đã tới mưa tê thấp
Lại úng đầy thân bất toại từ
Giải nắng ung thư mùa hạ trước
Đã hủy xong phần lục phủ hư
Thủy tận
Em đi vừa khuất trên đầu phố
Anh đuổi theo sau bóng đã nhoà
Đứng sững. Mới hay lìa cách đã
Sơn cùng thủy tận giữa đôi ta
Không hiểu
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi
(trích trong tập Ta thấy hình ta những miếu đền , Văn khoa, 1989)