- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“KÊN” VỚI TUỔI ĐỜI

30 Tháng Mười Hai 20215:32 CH(Xem: 10407)

 

 

PHO LOMBARD SF
Phố Lombard SanFrancisco

                                            

 

“KÊN” VỚI TUỔI ĐỜI     

Lê Chiều Giang     

 

 

Khi chợt nghĩ tới số 60, tôi nhắm mắt uống thêm 3 hớp cafe một lúc. Trôi xuống cổ tôi là cái nóng cháy và đắng ngắt của ly cafe vừa sôi, không đường, sữa.

Nếu cafe mà làm biến mất đi được cái số đáng sợ này, chiều nay tôi tình nguyện uống thêm vài ngàn ly nữa. Đánh đổi lại với tuổi trẻ mướt xanh, tôi thà bỏng môi, tôi thà rát cổ.

Phản ứng với số 60 dễ ghét, tôi tiếp tục mặc jean bó sát, áo trễ xuống thêm chút nữa và luôn đi giày cao gót. Tiếng gót khua vang, vọng theo mỗi bước chân, khi rộn rã, lúc reo vui đã làm tôi thân ái, ấm áp hơn với số tuổi không còn trẻ nữa của đời.

Đó là dáng, là điệu bộ của 60, cố gắng hết sức để nhìn như 50 hay trẻ hơn thế... Nhưng làm sao tôi thay xiêm, đổi áo. Lại càng không thể mang gót cao, cho sự đổi thay đích thực của mỗi tế bào trong cơ thể. Những tế bào mà chúng cứ vùng vằng, đả đảo, bắt tôi không thể xén đi, không được cắt bớt chút thời gian nào, mà phải trân trọng tuổi tác như một ân sủng đã được ban cho từ đất trời.

 

                                                                          ******

 

Khi biết chuyến bay bất ngờ trễ thêm 4 tiếng. Tôi dựa lưng mà như muốn dài thân trên ghế vì chán và tức United Airline, bởi mọi chương trình đón đưa sẽ bị thay đổi hết…

Vừa ngồi lại cho tử tế, mắt tôi chạm phải ánh nhìn không rời của người ngồi đối diện. Hơi khó chịu, nhưng tôi chậm phản ứng, hắn hạch sách trước: “Chị “nghinh” em phải không?”, tôi liền dùng đúng ngôn ngữ giang hồ: “Không nghinh, “kên” thôi” Cả hai cùng cười và hắn điềm nhiên ngồi xuống ghế bên cạnh.

Thôi, chẳng cần thắc mắc, cứ coi như chúng tôi vừa sáng tác ra một lối làm quen, một cách chào hỏi mới.

Tôi phàn nàn nếu phải ngồi đợi ở phi trường San Francisco lâu thế, thà ra phố. Ngay lập tức hắn text hẹn Uber…

 

Lombard, San Francisco. Đẹp thơ mộng với những con đường dốc chập chùng của mọi sắc hoa. Tôi cũng thường tới con phố nhỏ có hoa đủ 365 ngày này, thích thú với cảm giác khi để yên cho xe chạy dốc, qua những khúc quanh bất ngờ, mà không bị lật, không bị quăng ném xuống chân đồi.

Chúng tôi chọn một quán cafe nhỏ có balcony nhìn xuống ven đường thoai thoải dốc, được viền bằng những khóm hoa rực rỡ, đẹp, chan hòa ánh lên cùng chút nắng sắp tắt của một  chiều mùa xuân.

 

Phân tích về cách cấu trúc khác lạ của phố Lombard, chúng tôi mải mê nói về những Art work và Architecture. Cafe đã bị bỏ quên, lạnh tanh nguội ngắt.

Cùng say mê nhiều bố cục kiến trúc tuyệt vời, những tác phẩm toàn hảo thời Renaisance và Baroque. Bên cạnh Alberti, Palladio… Chúng tôi chẳng thể quên, không nhắc tới những thiên tài đã vật vã, miệt mài suốt bao năm cho đến tận cuối đời, để sáng tạo ra rất nhiều công trình đẹp muôn đời, vĩnh cửu như Michelangelo, Bernini...

Lan man, chúng tôi vòng vo qua hết những tượng, cùng tranh, bàn thêm cả về những khối kiến trúc cách điệu tân kỳ, rất đặc biệt của Antoni Gaudi....

Và, tôi cứ ngỡ như mình đang trở lại Châu Âu, trở lại với những chuyến du lịch xa vời, đầy thú vị của những ngày xưa, tháng cũ.

Cảm nhận của Khoa về Art, đánh thức trong t̉ôi niềm vui được bàn tới, được nói về bao điều mình đam mê thích thú, mà từ lâu lắm rồi như đã lãng quên.

Âm vang tiếng nói Khoa ấm áp nhưng sôi nổi, không đều đều buồn bã như kinh.

Tôi ngước mắt ngắm ánh nắng cuối cùng đang chìm dần vào tối, thiếp theo cùng chút hạnh phúc hiếm hoi, rất tình cờ, chợt tìm đến...

 

Thiên hạ hay bàn về những điều bất biến, những bền bỉ trăm năm… Chẳng lạc quan như thế, tôi tính theo phút, theo giây. Một chút gì đó dễ thương, hay hay rồi biến mất, ngày mai sẽ chẳng còn lại gì, bởi chính tôi không hề thiết tha gìn giữ.

Những bóng những bọt của đời người, chúng ta xấn tới, quyết nắm bắt cho bằng được, để đến khi nhìn ra, nhận thấy... Và sau cùng, những văn, những thơ đã ào ạt, thoát ra với cả tỷ lời thở than, phiền muộn.

Hóa ra tôi không có gì  “buồn” hết sao?:

Những vớ vẩn, thích bày đặt ra niềm u hoài không tên, của tuổi nhỏ. Những mơ màng, cũng vẫn không tên, thời thiếu nữ. Và từ khi hết ngây thơ để hiểu ra rằng, mọi tai ương luôn bỗng dưng từ trên trời cao rơi xuống. Chúng có tên gọi đàng hoàng, lại còn được gọi bởi rất nhiều thứ tên...

Tôi chẳng buồn đâu. Tôi... sợ hãi!

…….

Máy bay của những ngày giáp Tết chật cứng, Khoa loay hoay nhưng chẳng ai muốn đổi chỗ, nên dù rất muốn, chúng tôi không thể ngồi chung cùng hàng ghế.

Như một trò chơi tuổi nhỏ, Khoa viết, tôi viết… Dân kiến trúc, chữ Khoa rất đẹp. Chúng tôi thư qua thư lại trên những manh giấy nhỏ trong suốt chuyến bay dài…

Khoa múa chữ mông lung, tôi viết mơ hồ, lãng đãng. Chúng tôi tránh không hỏi gì về đời sống thật của nhau. Những điều không chú́t cần thiết, chẳng dính dáng gì đến hai cái phi trường: San Francisco và Tân Sơn Nhất. Nơi chúng tôi đã gặp và sẽ nói lời từ biệt.

 

Khoa muốn nán lại ở Tân Sơn Nhất. Tôi cũng kệ người nhà đang sốt ruột, trông ngóng bên ngoài chờ đưa, chờ đón… Chúng tôi ngồi bên cạnh những chậu hoa đào thắm hồng, rực rỡ của một tối giáp Tết, trong quầy cafe nhỏ.

Xuân quê hương, đã bao năm rồi tôi không trở lại?

Tôi nhớ thiết tha những con đường có lá bay, rơi rụng xoắn xít trên tóc, trên áo trắng đẹp mượt mà m̀ỗi chiều tan học. Tôi mê những đêm mưa tầm tã, gió âm u thổi cùng sấm sét, nằm nghe mưa rơi mà không nỡ ngủ quên, vì thương chút âm ẩm, se sắt lạnh của Saigon.

Và tôi nhớ như điên những thơm tho của mùa Tết nơi xóm nhỏ. Mùi sơn mới, khói pháo bay, cùng với hương lá xanh nồng nồng của bánh chưng. Tôi thích ngồi xếp soạn những dĩa mứt có màu sắc óng ả, đẹp như tranh, để Ba Mẹ mời khách dùng với tách trà thơm ngát.

Tôi cũng biết, sẽ chẳng bao giờ ai có thể quên những đồng tiền mới, lao xao, rộn ràng trong túi áo reo vui của những ngày Tết năm xưa, khi còn bé dại...

 

Khoa trách tôi thật vô lý, nếu sau hôm nay chúng tôi sẽ không còn gặp lại, dù Khoa và tôi cùng sống trong một tiểu bang rất đẹp. California.

Khoa sẽ chẳng bao giờ hiểu rằng, tôi tránh trước những tai ương trên trời, những sóng dữ dưới chân… Và trong hãi sợ, tôi tránh luôn những cảm xúc, những chao động mơ màng sẽ không thể thiếu, của những ngày sắp tới.

Trước khi chia tay, Khoa viết số phone trong bao lì xì giấy đỏ, đặt lên tay tôi với mắt nhìn đằm thắm.

Chờ bóng Khoa khuất tôi mới đọc lời chúc tết, bên cạnh là hàng dài số phone và email.

Một chút ngập ngừng, đầy tiếc nuối, tôi thả số điện thoại, email của Khoa vô ly cafe đang uống dở. Màu giấy đỏ tan trong cafe sữa, biến ra một chất nhờ nhờ trông thật khó chịu, dễ ghét.

Nét chữ đẹp không uốn nắn của Khoa thấm nhòe, loăng quăng như những sợi tóc ướt.

Tôi nhắm mắt, uống cạn ly cafe đỏ như máu pha. Ly độc dược đắng ngắt, nhợt nhạt, tượng trưng cho một năm tàn, sắp hết.

 

Tính theo cách Việt Nam, những tính toán rất lạ lùng. Trừ đi hết mọi thứ, nhưng tuổi tác thì nhất định cứ phải cộng thêm...

Và sáng mai, mùng một Tết.

Khi tiếng chuông nhà thờ Đức Bà rộn rã, ngân nga như những lời chúc phúc đầu năm. Tôi sẽ uống rất nhiều những ly cafe, ung dung ngồi “Nghinh” với tuổi sáu mốt.

 

Lê Chiều Giang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Giêng 20198:02 CH(Xem: 24826)
Từ Huế ra đến Quảng Trị mấy ngày đầu năm 2019 là những ngày ủ dột mưa. Sau bài viết: Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ở Hải ngoại. VOA 07.06.2018, tôi có ước muốn trở lại thăm Nhà thờ Đức Mẹ La Vang Quận Hải Lăng Quảng Trị, nơi đã từng có một quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo của Giáo sư điêu khắc Lê Ngọc Huệ cùng đám môn sinh trong đó có Mai Chửng với chủ đề Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi. (3)
03 Tháng Giêng 201910:50 CH(Xem: 20928)
Đêm ấy, một đêm Giáng Sinh rất lạ, sau ngày giải phóng đất nước một năm.1976. Là đêm Giáng Sinh thứ ba, tính luôn cái năm tôi đi sư phạm xa nhà, tôi không còn cùng bát phố với lũ bạn ngoại đạo trong cái thành phố nhỏ nhoi yêu mến tôi đã sống; nhưng vẫn da diết nhớ Giáng Sinh với những chiếc xe hoa lấp lánh, diễn hành dưới màn mưa lạnh, quanh mấy con phố nhỏ; những cỗ xe luôn mang đến một không gian tượi mới và tràn trề hy vọng. Khi còn hy vọng, là người ta còn mơ ước. Khi còn mơ ước,là người ta còn tin yêu cuộc sống này.Và người ta luôn trông chờ điều đó.
04 Tháng Mười Hai 201811:05 CH(Xem: 22653)
Từ một vùng đất hoang vu của dân tộc thiểu số thuộc bộ tộc K'Ho hiện nay, sau khám phá của bác sĩ Yersin (tháng 6 năm 1893), người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên thành phố Đàlạt. Đàlạt trở thành một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương trong nửa đầu thế kỷ 20.
11 Tháng Mười 201811:48 CH(Xem: 23675)
Lễ Quốc Tang của Chủ tịch nước Trần Đại Quang dù được tổ chức trọng thể tại cả ba nơi Sài Gòn, Hà Nội, Ninh Bình; và mặc dù nghĩa trang của ông rất lớn, nó chiếm một diện tích lên đến gần 30,000 m2, chúng ta vẫn thấy sự ra đi của ông rất mờ nhạt.
07 Tháng Mười 20189:13 SA(Xem: 23850)
Sinh ngày 6/10 Nhâm Ngọ, tức 13/11/1942, tại thôn “Me Vừng,” làng Phụng Viện thượng Hải Dương, Bình Giang, Hải Dương—nhưng trên khai sinh, đề ngày 6/0/1942—tôi có một lá tử vi khá kỳ lạ. Giáo sư Nguyễn Bỉnh Tuyên—một lãnh tụ Đại Việt Quốc Xã, thày dạy kèm chữ Pháp cho tôi trong hai năm Đệ Tam, Đệ Nhị (1957-1959)—nói tôi có số “ở tù;” nên “ở lính” có thể giải thích như ở tù. Mãi tới năm 1971, bác Phan Vọng Húc—bạn cha tôi ở Hải Dương, phụ thân nhà thơ Phan Lạc Giang Đông—mới đưa ra lời giải đoán khá chính xác: Tôi có số “Ngựa Trời,” sẽ xuất ngoại, đỗ đại khoa, và thọ tới hơn 70.
13 Tháng Chín 20189:07 CH(Xem: 23540)
Sáng nay vừa ra khỏi ngân hàng, tôi ghé vào siêu thị mua tấm thiệp sinh nhật cho ba chồng. Dòng chữ được giác bạc ngoài tấm thiệp đề "For a great Dad..." đầy yêu thương, trân trọng. Vừa lúc đó tôi nhận được điện thoại từ chị gái. Linh cảm bất ổn vì lúc đó đã 10 giờ tối ở VN. Giọng chị hớt hãi "Yến ơi, Ba đi rồi...". Trên tay tôi vẫn cầm tấm thiệp. Vài giây trước đó khi đứng chọn tấm thiệp vừa ý nhất, tôi chợt nghĩ "Vì sao mình chưa bao giờ có được may mắn tặng cho ba mình tấm thiệp nào có nội dung như vậy. Vì sao ba mình không là một người great Dad như bao nhiêu người vẫn tự hào tặng thiệp cho ba họ trong ngày sinh nhật như chồng mình vẫn làm mỗi năm?".
24 Tháng Tám 20187:38 CH(Xem: 25672)
Tôi khởi viết những trang Nhật Ký Cuối Đời này, từ đầu năm 2016, sau ngày mẹ tôi từ trần tại Los Angeles, CA, ngày 27/11 Ất Mùi, tức Thứ Tư, 6/1/2016. Mẹ sinh ngày 7/3 Mậu Ngọ [7/4/1918], tại Phụng Viện thượng, Bình Giang, Hải Dương, thọ 99 tuổi ta. Cha tôi, sinh ngày 27/3 Mậu Ngọ [27/4/1918], mất sớm, ngày 8/3 Kỷ Mùi [4/4/1979], khi mới 62 tuổi, ở Sài Gòn. Khi gia đình ly tán—tôi lưu vong ra hải ngoại, anh trai tôi bị đưa ra bắc “cải tạo”—thuật ngữ tuyên truyền xảo quyệt của những người tự nhận Cộng Sản, dù chẳng hiểu Cộng Sản là gì, và trên thực chẩt, chỉ vẹt nhái theo Trung Cộng, vì Karl Marx và Friedrich Engels không hề nói đến góp chung tài sản, mà chỉ hoang tưởng ngợi ca một xã hội nguyên thủy công hữu [communism].
17 Tháng Bảy 20182:02 CH(Xem: 22683)
Có thể nói Luật Đặc Khu và cuộc trấn áp ngày 17/6 đã biến những người dân VN bình thường trở thành những nhà hoạt động. Và đó là khởi đầu một “cuộc chiến” mới. Trong cuộc chiến này, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ phải đương đầu với một sức mạnh mà họ thầm hiểu rằng với nó; quân đội, súng ống, xe tăng,… hỏa lực dù mạnh thế nào cũng chỉ là bùn đất!
23 Tháng Năm 20182:17 SA(Xem: 24278)
Thuở ấy, ông Nghè Tân (Bắc Kỳ Thanh Tra Đại thần, Tiến sĩ Nguyễn Quý Tân) nhân một hôm đi ngang cánh đồng Phủ Bình Giang thấy một người đàn bà đang mếu máo, nhớn nhác tìm kiếm một vật gì. Gặng hỏi thì được biết người đàn bà này góa chồng, có một con trâu mới chết, bà đã đóng 2 quan tiền cho lý trưởng làm đơn, đóng triện để lên trình quan phủ. Vội vàng làm sao bà đánh rơi mất tờ đơn. Nay đường về làng thì xa, trong cái ruột tượng xác xơ kia chỉ còn 6 quan tiền để lễ quan phủ và nha lại lấy đâu ra tiền để nhờ người viết đơn!
16 Tháng Năm 20181:22 SA(Xem: 28323)
Tôi rời Hà Nội vào Nam rất sớm. Năm 1951 tôi đã theo bố tôi và người chị cả vào định cư ở Sài Gòn trong khi mẹ tôi và các anh chị tôi vẫn còn ở Hà Nội cho đến ngày di cư. Vào Nam ba bố con tôi ở chung với gia đình người bác ở đầu đường Hồng Thập Tự gần sở thú Sài Gòn. Thời gian chúng tôi ở đó tôi thường theo các anh họ tôi đạp xe đi tắm ở hồ bơi mà hồi đó chúng tôi gọi là "đi pít-xin". Hồ bơi ở xa lắm, mãi tuốt trong Chợ Lớn. Tôi nhớ là để tới hồ bơi chúng tôi phải dắt xe đi ngang một con đường sắt, rồi lại phải băng qua một bãi đất trống rất rộng mấp mô đầy những mồ mả.