- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CHIẾC CẦU KÝ ỨC

11 Tháng Bảy 201910:44 CH(Xem: 24278)
DH 10
Ký ức - photo ĐH

 


Trung gọi điện thoại cho tôi:

- Anh Hai ơi, anh chị cố gắng thu xếp về chơi với tụi em nghe. Em vừa làmxong nhà mới.

- Vậy à? Để bữa nào rảnh đã. Anh Hai đang bận chút công việc. Hôm nào về được, anh sẽ gọi.

- Dạ, anh cố gắng nha.

- À, mà nhà mới ở đâu vậy em?

- Vẫn ở chỗ cũ, trong khu đất của ba má em hồi giờ. Gần bên cầu Thành đó anh.

- Được rồi. Hôm nào thu xếp được anh sẽ về.

Trung là em họ, con người cô ruột của tôi. Mấy năm nay, làm ăn khấm khá hơn, nó vẫn thường hay ghé thăm vợ chồng tôi.

***

Cầu Thành...

Sông Cái...

Vùng đất phía bắc sông Cái ngày xưa (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) dân cư thưa thớt, vốn là tổng Trung Châu, một trong ba tổng của phủ Diên Khánh, bao gồm bốn thôn gọi là tứ thôn Đại Điền,nay là vùng đất thuộc các xã Vĩnh Phương (thuộc TP Nha Trang), một phần thị trấn Diên Khánh, xã Diên Phú, Diên Điền, Diên Sơn, Diên Lâm (thuộc huyện Diên Khánh) và một số xã thuộc huyện miền núi Khánh Vĩnh. Con sông Cái không dài, chỉ khoảng 80 km, phát nguyên từ hòn Gia Lê, vùng núi giáp ranh giữa tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa, ở độ cao hơn 1800 m, chảy qua hai huyện Khánh Vĩnh và Diên Khánh rồi đổ ra cửa biển Cù Huân(nay là cửa biến Nha Trang).

Thuở nhỏ (vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước),khi bắt đầu vào trung học, từ nhà, tôi phải đạp xe băng qua một cánh đồng và một xóm nhỏ,  rồi đến đường cái quan hay được gọi là đường Cái đá (vì được lát đá). Con đường này vốn là con đường thiên lý, chạy từ bắc vào nam, ngang qua phủ Diên Khánh, gặp dòng sông Cái chắn ngang ở thôn Phú Lộc thuộc xã Diên Thủy. Chắc hẳn là từ xưa, trước lúc người Pháp xây dựng Nha Trang làm lỵ sở của tỉnh Khánh Hòa, nơi đây là một bến đò trước khi một chiếc cầu gỗ được bắc qua con sông này.Đây chính là cầu Thành.

“Thành” vốn là từ gắn liền với một tòa thành cổ: Thành Diên Khánh. Thành Diên Khánh do chúa Nguyễn Phúc Ánh xây dựng vào năm 1793, giao cho tướng Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh trấn giữ để chống nhau với quân Tây Sơn. Nơi đây cũng đã từng diễn ra nhiều trận chiến ác liệt trong cuộc kháng Pháp sau này của Bình Tây đại tướng Trịnh Phong và các đồng chí của ông. Thành xây theo kiểu Vauban, vốn có sáu cửa, sau chỉ còn bốn cửa là Đông, Tây, Tiền, Hậu. Trừ các công trình bên trong thành (có cả hành cung, dinh thự, cả pháo đài, nhà lao...) đã bị phá hủy theo thời gian, tòa thành cổ còn khá nguyên vẹn với bốn cổng thành, tường thành, hào sâu. Từ một danh từ chung, “Thành” hầu như đã trở thành một tên riêng, là quận lỵ của Diên Khánh trước đây và nay là thị trấn Diên Khánh. Gắn với địa danh này còn có Chợ Thành, Cầu Thành, Ngã ba Thành...

Thành, đối với tôi, một đứa bé nhà quê, nó là hình ảnh của thị thành, là phố xá mặc dù nó chỉ là thị tứ nhỏ bằng cái lỗ mũi, chỉ với 3 đường phố: Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp và Trịnh Minh Thế (nay là Lý Tự Trọng), nhưng với tôi thuở nhỏ, nó rất to lớn, là cuộc sống văn minh, có ánh sáng đèn điện, có đủ các cửa tiệm, hiệu buôn: hiệu vàng Lý Tài, hiệu buôn Đồng An, phở A Ùi, nhà sách Trí Đức, tiệm hình Ánh Sáng, tiệm bánh An Thành, tiệm may Phan Phiêu... và nhiều cửa tiệm khác.

Cầu Thành không dài, chỉ khoảng chừng ba trăm mét. Tôi còn nhớ rất rõ, cây cầu hoàn toàn làm bằng gỗ, không rộng lắm, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe ô tô lớn chạy. Mỗi lần có xe chạy qua, nhất là những lúc có đoàn xe của lính Mỹ chạy qua, người đi xe đạp hay đi bộ phải dạt vào hai bên thành cầu và chiếc cầu cứ lắc lư như muốn sập. Xe chiều bên kia phải dừng lại chờ. Hàng ngày, tôi phải đi về mấy bận trên cây cầu này. Bên bờ bắc cách cầu một quãng về phía đông, là những guồng xe nước suốt ngày đêm ầm ì, kẽo kẹt quay, đưa nước về nuôi những cánh đồng bao la vùng tứ thôn Đại Điền.

Cầu Thành bằng gỗ nên vào mùa mưa lụt thường hay bị cuốn trôi. Dòng sông vào mùa lũ nước chảy xiết trông rất ghê, củi rác trôi dập dềnh. Người qua lại từ bờ bên này sang bờ bên kia và ngược lại, chỉ có cách đi bằng đò. Đi học vào mùa này, tôi thường phải dậy thật sớm, ngoài việc phải vượt qua nước lụt ở cánh đồng làng trên con thuyền nhỏ do cha tôi “cầm lái”, tôi còn phải chờ đò qua sông ở đầu cầu Thành. Hầu như năm nào cũng vậy, cứ vào mùa lụt thì cầu Thành trở thành bến đò ngang với những con đò nhỏ mỏng manh chèo chống vượt qua dòng nước xiết của con sông Cái hung dữ. Khi một công dân của tỉnh Khánh Hòa (đơn vị Diên Khánh) đắc cử dân biểu Hạ nghị viện, ông đã xin được ngân sách của chính phủ để xây dựng lại chiếc cầu nhưng cũng vẫn là chiếc cầu gỗ, có điều trông mới hơn, vững chãi hơn mà thôi.

Phía bên kiacầu Thành, bên phải con đường nối với chợ Thành là một bãi cátbồi rất rộng. Bên tráilà một khu dân cư, toàn nhà tôn, vách ván, chủ yếu là nơi trú ngụ của nhiều gia đình bỏ làng quê vùng tứ thôn Đại Điền, tản cư về đây, trong đó có nhiều gia đình có người tham gia chính quyền, quân đội phía “bên này”.

Những năm đó, chiến tranh diễn ra rất ác liệt với sự tham dự của binh lính các nước đồng minh của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa như Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan... Vùng tứ thôn Đại Điền quê tôi trở thành vùng “mất an ninh” điển hình của vùng quê Diên Khánh, ngày quốc gia, đêm cộng sản. Cứ chiều chiều, đại bác của “bên này” bắn lên vùng rừng núi ầm ì. Tối đến, phía “bên kia” từ trên núi thỉnh thoảng pháo kích xuống đồng bằng, y như trong câu hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong bài “Đại bác ru đêm” mà tôi đã thuộc lòng:

Đại bác đêm đêm dội về thành phố

Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe...

Cứ vài hôm, vào giữa đêm khuyalại rộ lên những trận đấu súng giữa phía “bên này” và phía “bên kia”. Súng to, súng nhỏ nổ vang, hỏa châu sáng rực trời. Và thế là sáng hôm sau, phía đầu cầu Thành, gần giáp với dốc chợ Thành là nơi đặt những thi thể đầy máu me của những người phía “bên kia” chết vì trận đánh đêm trước, ở vùng tứ thôn Đại Điền hay vùng phía tây Diên Khánh, thậm chí ngay cả tại Diên An... đều được xe nhà binh đưa về đây.Khi thì một hai, khi thì năm bảy, có khi hơn cả chục thi thể nếu là những trận đánh lớn. Hoặc có người thông báo, hoặc trực tiếp thân nhân của những gia đình có người đi phía “bên kia” lén nhìn mặt những thi thể, nếu là người thân của mình thì nhận xác về chôn cất. Đến cuối ngày, những thi thể không có ai nhìn nhận (chủ yếu là người miền ngoài) thì đều được vùi lấp ngay ở bãi cát bồi gần đó. Cứ như vậy, từ ngày này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác, bãi cát bồi thành bãi tha ma bằng phẳng, không mộ, không bia, ngay sát khu dân cư đông đúc của xứ Thành.

Chỉ vài năm sau, cùng với việc mở tuyến đường tránh thị xã Nha Trang (thường gọi là Cải lộ tuyến, “chết” tên cho đến bây giờ), một cây cầu bê tông quy mô lớn được xây dựng, cách cầu Thành khoảng chừng một cây số về phía hạ lưu, gọi là cầu Sông Cái mà người dân thường gọi là Cầu Mới. Việc xây dựng cầu đường hoàn toàn do Mỹ viện trợ, hãng RMK đứng ra làm. Cầu Mới được làm rất nhanh với máy móc hiện đại, đâu chỉ chừng hơn một năm. Trong thời gian làm cầu, lũ học sinh chúng tôi đã có thể đạp xe đi học bằng Cải lộ tuyến, qua sông bằng con đường đất làm tạm ở mé bên dưới câycầu đang xây. Khi khánh thành cầu, khỏi phải nói chúng tôi vui cỡ nào vì không còn phải đi học qua cây cầu gỗ gập gềnh hay phải đi đò qua sông vào mùa nước lụt.

Sau năm 1975, cây cầu gỗ vẫn còn đó nhưng lượng người qua lại không nhiều. Cũng vẫn vậy, cứ đến mùa lụt thì cầu Thành chỉ còn trơ lại những cây trụ cầu.

Cách đây mấy năm, cây cầu gỗ đã được thay bằng cây cầu bê tông vĩnh cửu hai làn xe, cùng với việc mở rộng con đường từ phía bờ bắc lên đến trên 20 mét, nối với Quốc lộ 1A, xuyên qua nội thị Diên Khánh, bên hông chợ Thành.

Gần 40 năm sau ngày thống nhất, ngay gần chỗ trước đây là nơi đặt thi thể của những người phía “bên kia” để người thân nhìn mặt, một tượng đài người mẹ đau khổ bế xác con đã ngã xuống trong chiến cuộc của quê hương một thời khói lửa điêu linh và một bức phù điêu lớn, đã được dựng lên.Khu bãi cát bồi ngày xưa chôn lấp những người con của đất mẹ bây giờ vẫn trống huơ trống hoắc, không thấy nhà cửa gì. Ai có thể xây nhà cửa và sinh sống trên mảnh đất có thể vẫn còn đầy xương cốtnày? Linh hồn của họbây giờ về đâu?

Khu tạm cư ngày xưa ở phía bên trái, bây giờ là một khu đô thị mới mọc lên, rải rác những ngôi nhà mới xây dựng.

Cuộc đời vô thường như thế sao?

***

Nâng ly bia chúc mừng nhà mới, tôi hỏi Trung:

- Em có biết gì về cầu Thành trước đây không?

- Không, lúc đó em còn quá nhỏ. Chỉ biết trước đây nó là một cây cầu gỗ, cứ tới mùa lụt là bị trôi.Sau trận lụt, nước rút, chỉ còn trơ lại những cây trụ cầu. Bây giờ, như anh thấy đó, nó là một cây cầu bê tông chắc chắn,to lớn. Nhờ con đường mở rộng mà vợ chồng em làm ăn buôn bán được, đủ để nuôi con.Em cũng chỉ nghe nói mang máng là phía bên kia cầu từng là nơi chôn rất nhiều người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh khốc liệt trước đây. Chỉ vậy thôi.

Tôi trầm ngâm, thỉnh thoảng nhìn những vệt nắng loang loáng trên mặt nước con sông Cái, in bóng chiếc cầu xuống dòng nước mênh mang xuôi chảy về Đông.

                                                                                    NP phan

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Tám 20203:03 CH(Xem: 22205)
Mãi tới năm 2010, hơn 45 năm sau, chúng tôi mới có dịp quay lại Phú Quốc. / Chuyến bay hôm đó, ngồi trong một máy bay cánh quạt của Nga, gần giống như máy bay DC3 thời xưa của Air Vietnam, nhưng xập xệ hơn nhiều. Bầu trời vẫn xanh, nắng vẫn rực rỡ, những đám mây vẫn bạc trắng tinh. Phía dưới những thị trấn nhỏ mới mọc lên bên các nhánh Cửu Long Giang. Ruộng đồng xanh mát không còn những hố bom đạn loang lổ như ngày xưa.
02 Tháng Sáu 20209:59 CH(Xem: 21305)
Ve, loài côn trùng quen thuộc với tôi từ tấm bé, nhưng vì sao lại gọi là ve sầu thì tôi không rõ lắm. Mãi sau này biết sầu, mới dần dà nhận ra (!) Ngày xưa rất xưa, thời dân làng chỉ nhận tin qua giọng loa vang vang sau tiếng cốc cốc của mỏ làng vào rạng sáng hay lúc chiều sập tối, thủa tôi còn loăng quăng bám chéo áo ngoại ra vườn, tiếng ve đã in vào trí óc non nớt của tôi rồi.
17 Tháng Năm 20208:17 CH(Xem: 7887)
Những cơn mưa chiều hiu hiu nhẹ giăng ngang qua thành phố, hàng cây Anh Đào trụi lá khẳng khiu, chúng tôi như thường ngày đội mưa xuống phố. Nhuần lúp xúp chạy…Được mấy ly cà phê…Hiệp cười trong bụi mưa… Bốn thằng ba ly, tốt chán… Bửu vỗ bình bịch vào ngực…Một bịch thuốc rê đây này…Tôi lặng lẽ đi theo các bạn mình và vu vơ thầm đếm bước chân… Chiều một mình qua phố. Âm thầm nhớ nhớ tên em… Ở đây buồn quá, thành phố hiền hòa và nhỏ nhắn như bàn tay, chúng tôi thường rủ nhau lang thang qua các nẻo đường trước khi đến quán cà phê.
25 Tháng Ba 20209:25 CH(Xem: 22792)
Đêm đêm, nhất là những đêm trăng sáng, thỉnh thoảng có những “sinh hoạt” gì đó tôi cũng chẳng biết. Và thỉnh thoảng, có những đoàn quân rất đông người với bao nhiêu là súng ống đạn dược, kéo về trong một đêm, rồi sáng sớm hôm sau họ lại lên đường. Chắc là đánh nhau ở đâu đó. Tôi nghe loáng thoáng cha mẹ tôi nói là bộ đội chủ lực gì gì đó.
23 Tháng Giêng 20201:14 SA(Xem: 24184)
Mấy hôm rày tôi không hát " ầu ơ ví dầu..." để ru cháu ngủ mà hát thật "mùi" cái bài "Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa". Cái thằng cu Ben em cu Tèo nghe êm tai nó "phê" một giấc. Bởi vì "ruột gan" của quại nó có gởi qua đó để hát mà lỵ Bây giờ già già thiệt rồi nên cứ hay nhắc câu: " Nhớ hồi xưa!!...". Mà nhớ gì nhất nào!? Chắc ai cũng như tôi. "Nhớ Tết nhất!". Đó là nỗi nhớ nồng nàn nhất trong muôn nỗi nhớ của cuộc đời.
13 Tháng Mười Hai 20198:55 CH(Xem: 22101)
Ba giờ sáng…tôi bước ra đường, những ngọn gió cuối tháng chạp như con ngựa hoang lồng lộng chạy qua các nẻo phố. Tôi lặng lẽ đi dưới hàng cây Phượng vĩ già trong rét mướt yên tĩnh đêm sâu. Có tiếng rao…Ai bánh nậm, bánh dày đây… cất lên trong khoắc khoải, một vài chiếc xe ba gác chở hàng sớm xình xịch chạy qua lầm lũi.
07 Tháng Mười Một 20198:36 CH(Xem: 27691)
Trong thời niên thiếu, anh cũng như một số bạn đều mê đọc tiểu thuyết, đọc thơ của các văn thi sĩ tiền chiến. Trong các nhóm nhà văn đó thì nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã ảnh hưởng đến anh nhiều nhất. Văn của họ nhẹ nhàng, trong sáng, với những truyện tình lãng mạn lồng trong khung cảnh quê hương đơn sơ và lúc nào cũng man mác tình yêu. Truyện của họ, không lúc nào thiếu trong tủ sách gia đình của anh. Trong nhóm đó, Nhất Linh được anh coi như một mẫu người lý tưởng, một nhà văn, một chiến sĩ cách mạng. Nhiều nhân vật trong truyện đã in sâu vào ký ức anh. Họ không những đã trở thành một phần đời sống của anh mà đôi khi lại là những giấc mộng không thành. Trong những năm cuối cuộc đời, ông xa lánh cảnh trần tục, như một tiên ông quy ẩn bên dòng suối Đa Mê của rừng lan Đà Lạt.
31 Tháng Mười 20191:28 SA(Xem: 24967)
Khi tôi đi gần hết cuộc đời tôi mới nhận ra được điều kỳ diệu nhất trên đời này là tôi có Mẹ. Mẹ là ánh sao, tỏa ánh sáng dịu dàng mang cho tôi đến thế gian này. Khi tôi đi đến cuối con đường tôi chợt nhận ra rằng mẹ là người sống cạnh tôi nhiều nhất hơn hẵn tất cả những người mà tôi đã gặp ở thế gian này. Chín tháng mười ngày mẹ mang tôi tận ở trong lòng, tôi ăn ngủ, buồn vui từ mẹ chở che và chia sẻ cho tôi. Cho đến lúc chào đời, tôi cũng được nằm sát bên mẹ, mẹ lại chuyền hơi ấm, chuyền dòng sữa ngọt ngào món ăn đầu đời cho tôi đủ sức chào đón thế giới bên ngoài.
24 Tháng Mười 201912:51 SA(Xem: 23176)
Lúc đó vào khoảng 22giờ45 tối ngày 08-10-2019 tôi bỗng nghe chuông điện thoại reo.Sau đó là giọng Ngô nguyên Nghiễm.Anh báo tin nhà thơ Trần tuấn Kiệt đã mất mất lúc 5 giờ sáng. Tháng 9-2018 gia đình chuyển từ Cao lãnh về Sai gon tôi có đến thăm . Anh gầy lắm lại ho nhiều., cứ mỗi lần nói vài tiếng lại ngừng để và ho.gặp lại anh em cũ anh như khỏe hẳn lên, nói rất nhiều và cũng ho rất nhiều.Anh ở nhà thui thủi một mình. Suốt ngày ngồi trên cái ghế đồng thờicũng là "giường ngủ"...Mùng hai tết Kỉ hợi tôi lại ghé thăm . Anh rất vui. Dù sức khỏe suy giảm rất nhiều nhưng vẫn đem mấy bài thơ (khoảng bảy bài thơ dài) anh mới sáng tác đọc cho tôi nghe, vừa đọc vừa ngừng đế thở và ho. Tôi nói anh nghỉ cho đỡ mệt, nhưng anh vẫn đọc tiếp, đọc một hơi cho đến bài cuối cùng tưởng như không còn dịp để đọc nữa. Sợ anh quá mệt , tôi tìm cách giã từ anh ra về dù muốn ở lại nghe anh đọc nữa.Tôi dịnh bụng mai mốt sẽ tới thăm anh không ngờ... Sáng ngày 9-10 2019 tôi tới vĩnh biệt a
23 Tháng Tám 20198:25 CH(Xem: 23114)
Đến giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại quyết định hôn anh khi ngồi cạnh nhau bên bờ hồ Gươm vào một đêm thu mát mẻ, ngọt ngào và lãng mạn tháng 9. Tôi sẽ không thi vị hóa nó bằng cụm từ ẩn ngữ quen thuộc của Phan An “mấy sợi tóc em bay bay, má em gần kề”, không phải vì cụm từ đó không đẹp hay vì tôi không biết nói một cách văn vẻ và mượt mà, mà vì tôi thích gọi sự việc bằng đúng tên của nó.