- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nguyễn-Xuân Hoàng, Văn và Tôi….

08 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 73809)


nxh-caolinh-content
  Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng - Ảnh Cao Lĩnh


Tháng 5 năm 2008

 

Cô bạn đến nhà chơi hỏi sao lâu quá không thấy tôi có tạp chí Văn mà chỉ có tạp chí Hợp Lưu thôi. Tôi trả lời - chắc trễ - Văn hay trễ.

 

 

Tháng 7 năm 2008

 

Phòng làm việc của tôi có một bệ cửa rộng như bề ngang của một kệ sách nên tôi dùng nó như một tầng của kệ sách để đựng những quyển Văn và Hợp Lưu. Bạn bè đồng nghiệp người Mỹ hay mở ra hỏi tôi đây là sách gì? Tôi giải thích và thường là xem thử nó tương đương với tờ gì bên tạp chí tiếng Mỹ để so sánh cho dễ. Nhưng khổ nổi, ngoài những tạp chí liên quan đến nghề nghiệp, tôi rất ít biết đến những tạp chí văn chương tiếng Mỹ. Thế là đành chịu thua.

 

Thỉnh thoảng, mỗi khi mệt mỏi với công việc, tôi hay mở những quyển Văn hay Hợp Lưu cũ ra đọc đi đọc lại trong khi chờ đợi cuốn mới. Lần này tôi mở quyển Văn cũ ra đọc. Thường khi mở ra, tôi luôn tìm đọc những bài sổ tay của nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng trước tiên, nhưng sao hôm ấy tôi lại đưa mắt liếc nhìn trang thứ hai của tờ bìa, thấy đia chỉ email của toà soạn và nảy ra ý định viết vài dòng hỏi thăm lý do chậm trễ. Có thể tôi đã từng thấy địa chỉ toà soạn trong nhiều năm qua, dễ chừng đến 20 năm, nhưng tôi chưa bao giờ biết dùng nó vào việc gì.

 

Tôi nhớ tôi viết “Kính gửi toà soạn báo Văn. Đã lâu tôi không nhận được báo không biết là ngân khoản của tôi đã hết hạn mà tôi chưa gia hạn hay tờ Văn có vấn đề gì? Làm ơn cho biết tin. Cảm ơn toà soạn”. Viết chỉ để viết chứ không hề mong sẽ nhận được thư hồi âm bởi có bao giờ thắc mắc và gửi hỏi lý do đâu.

 

Nhưng bất ngờ thay, sáng ra mở hộp thư, thấy thư trả lời của toà soạn nằm ngay ngắn ở hộp thư. Lòng có chút vui mừng, nhưng niềm vui vội tắt ngay khi đọc được “Kính gửi chị…..Tạp chí Văn đã đình chỉ đã vài tháng rồi nhưng chúng tôi chưa thông báo cho độc giả kịp. Thành thật xin lỗi chị”. Một cảm giác hụt hẩng và bàng hoàng xâm chiếm hồn tôi. Một mất mác vô cùng lớn bỗng làm tôi xốn xang như tôi vừa đánh mất một điều gì quí giá trong cuộc đời mình. Người ta hay nói phải mất rồi chúng ta mới nhận ra là mình yêu quí biết dường nào! Rất đúng với tôi trong trường hợp này.

 

Tôi đã không thắc mắc khó chịu vì sao báo đến trễ bởi tôi đọc những bài sổ tay lúc nào cũng kèm theo một lời xin lỗi. Tôi đã không thắc mắc bởi tôi biết tờ báo đã sống còn là do lòng yêu văn chương và tấm lòng tha thiết giữ gìn văn hoá quê nhà của một số văn nghệ sĩ yêu chuộng văn thơ, ngoài giờ làm việc chính, kiếm cơm hàng ngày, đã bỏ thì giờ và tiền bạc lo cho tờ báo chứ họ không thể sống bằng nghề làm báo. Thế nên khi nào báo đến thì đọc, sự trễ muộn của tờ báo chẳng làm phiền lòng tôi chút nào cả.

 

Trở về với email hồi âm. Phiá dưới email có chữ ký không viết hoa “nxh”. Phải nói là ba chữ nxh đã bắt tôi chú ý và tôi đã nhận ra chữ ký này, đó là chữ ký của nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng. Lòng tôi thật là vui, vui lắm. Vui vì đây là lần đầu tiên tình cờ tôi nhận được vài dòng trả lời của một nhà văn mà tôi mến mộ và yêu thích và đây cũng là cơ hội đầu tiên tôi liên lạc với một nhà văn.

 

Mỗi khi cầm tờ Văn trên tay, bài đầu tiên tôi đọc là sổ tay của ông nhưng tôi không biết gì về ông ngoài những bài viết ấy. Tôi vẽ ra một Nguyễn-Xuân Hoàng ít nói, trầm tư và rất thông minh nhất là khi ông đưa vào một vài câu đối thoại ngắn gọn để chuẩn bị đào sâu vào tâm tư tình cảm hay tính cách của nhân vật, một người rất tiết kiệm lời chê bai ngay cả khi ông không bằng lòng về một điều gì hay với một ai và điều này đã ảnh hưởng vào suy nghĩ của tôi rất nhiều. Ông mang vào những bài viết cái triết lý sống một cách rất tinh tế nên không làm người đọc cảm thấy là ông đang dạy đời. Ông luôn quí tình bằng hữu còn hơn bản thân ông. Nhưng bên cạnh những cảm nhận ấy, tôi cũng đọc được ở ông một người rất cô đơn, cô đơn ngay chính với ông. Một con người có đôi khi không tha thiết với trần gian này. Sự ra đi luôn ám ảnh ông. Tôi không biết là ông đã từng tuyệt vọng về điều gì? Tôi không hề biết gì về cuộc đời ông nhưng tôi có thể đọc ở ông, bởi tôi cảm thấy được rằng, hầu như tất cả những chi tiết, những tính cách, những nhân vật mà ông tạo ra từ những kinh nghiệm vui buồn đau đớn của chính bản thân ông nằm ở giữa, ngay ở trong từng tác phẩm của ông. Ở tác phẩm “Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu”, dù là những lá thư gửi Em yêu dấu mượt mà và lãng mạng nhưng chẳng phải là những lá thư riêng tư. Ông như đã gửi nỗi lòng ông cho tất cả mọi người cái đau đớn mà cuộc chiến mang lại, nỗi thống khổ dằn vặt của những chia xa. Thật vậy, ông đã thả vào trong tiểu thuyết của ông những sắc bén, ngọt ngào, những cao thượng hay hèn hạ trong từng nhân vật rất dứt khoát và rõ ràng và vì thế ông đã làm người đọc không phân biệt được đâu là tiểu thuyết đâu là tự sự. Nó bàng bạc nỗi đau nhân thế, nỗi đau chiến tranh, nỗi đau thân phận làm người chậm rãi mà thấm sâu. Nó làm người đọc muốn đọc lại, muốn suy gẫm, muốn đào sâu vào từng chi tiết. Nhưng lúc nào nó cũng làm người đọc nhẹ nhõm ở phút chót, phút giây kết luận như là một số phận!

 

Và một chi tiết nữa mà tôi có thể đọc được ở ông là một thơ ấu không dễ chịu, một thơ ấu không bình yên luôn dày vò ám ảnh ông. Bãi biển quê nhà với những lúc một mình cô đơn đến độ tàn nhẫn và quá lạnh lùng. Ông mang nó theo bên mình, trong những tác phẩm ở một góc độ thật mạnh mẽ. Tôi muốn nói là ông đã không rên rỉ. Lối viết của ông như mũi dao cứa vào quá khứ làm rỉ máu chứ không phải là những than thân trách phận làm độc giả mũi lòng dăm ba phút rồi quên!

 

Trong bài Barbara, khi ông kết luận “Có một nơi chứa đầy mâu thuẫn, đó là trái tim của chúng ta”. Tôi tin thế và nếu ai có một trái tim nhạy cảm sẽ biết sự mâu thuẫn này nó như thế nào. Có thể nó làm ta lên cơn sốt. Nó không thể là trắng hay là đen. Nó là một màu xám buồn của những đám mây đang kéo về trên bầu trời bão tố.

 

Không biết là tôi có nói quá về ông, nhưng đó là những gì mà tôi cảm nhận được, đọc được ông trong những tác phẩm của ông dù rất muộn màng! Khi ông nói ông đã bất công khi không thích đọc những tác phẩm của Bình Nguyên Lộc trong bài viết Bình Nguyên Lộc ở U Minh, tôi cũng nghĩ tôi đã bất công đối với ông và với rất nhiều tác giả trước 1975. Một bất công không tính toán và một muộn màng tình cờ cảm nhận được.

 

Muộn màng bởi thời mà tạp chí Văn đã có một chỗ đứng khẳng định trên văn đàn văn học và nghệ thuật, thời mà ông đã là thư ký của tòa soạn thì tôi còn nhỏ lắm và vì tôi ở tỉnh lẻ thành ra tôi không biết gì về Sài Gòn, về đời sống văn chương ở đó. Thật vậy, tôi đã chưa từng đọc hay biết là chúng ta đã từng có tạp chí Văn, Khởi Hành, Sáng Tạo hay Bách Khoa... Tôi chỉ biết Thằng Bờm với những chuyện cười, thêm chút nữa là Tuổi hoa, Tuổi ngọc trước khi tôi bị cắt đứt với văn chương nghệ thuật miền nam bởi biến cố mùa xuân 1975. Vậy mà một chút chỗ này, một chút chỗ kia về Sài Gòn, về đời sống sinh hoạt của giới văn chương Sài Gòn trong những tác phẩm của ông đã cho tôi như sống trong thế giới của một thời mà tôi không có cơ hội chạm vào. Một Sài Gòn của đường Phạm Ngũ Lão thật rõ nét!

 

Tôi lại muốn nói đến sự cô đơn của ông mà tôi đọc được. Chính sự cô đơn đã cho ông thu mình lại ở một góc và quan sát với đôi mắt mở to, thu hình những diễn biến quanh ông, không phải chỉ thu hình những sự kiện bên ngoài của một con người mà cả bên trong, một bên trong mâu thuẫn, xâu xé của người đối diện để khi ông mô tả nhân vật, ông có thể ghi ra độc đaó, rõ nét và sắc bén, độ sâu của sự nhạy cảm. Ông đã đi sâu vào từng ngõ ngách nội tâm của nhân vật ông tạo ra. Ông có lối viết từng câu rất ngắn gọn và ông sử dụng chữ nghĩa rất chính xác, có đôi khi khô, nhám và rướm máu như một đường gươm nhưng có khi lại lãng mạng nồng nàn đến vô cùng! Ông có những câu kết luân rất ngắn gọn và mang một thông điệp đến bất ngờ, đẹp và hay đã làm tôi sửng sốt. Chẳng hạn như “Thời chiến tranh, tình yêu là xa xỉ phẩm” trong bài “Dưới tàng vây trứng cá” hay “Nhưng, thư từ làm cái gì, chữ nghĩa là điều vô ích, nếu một khi chúng ta đã không còn muốn đọc nhau nữa. Phải không?” trong “Bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu” và khi ông dùng câu này lập lại một lần nữa để kết thúc lá thư ông viết cho Vi trong bài “Giáng sinh”. Và một điều nữa là tôi đã bắt gặp rất nhiều lần “Phải thế không?” ở thể câu hỏi để rồi luôn trở thành thể khẳng định. Ông đã có nhiều đoạn đối thoại bằng những câu hỏi. Người hỏi cũng hỏi và người trả lời cũng hỏi như một thách thức, như một từ chối trả lời! Tôi chỉ đưa ra một ví dụ như trong bài viết “Một hạt bụi của Vũ Khắc Khoan trong Sài Gòn đỏ” có đoạn khi người công an hỏi: “Tại sao anh không đến chỗ tôi làm việc?” “Chỗ nào?” tôi biết tại sao tôi trả lời như vậy. “Bộ anh không giữ cái điạ chỉ của tôi sao?” “Điạ chỉ nào?” Tôi tiếp tục hỏi lại, mắt nhìn thẳng vào mắt y. Còn trong tác phẩm “Bụi và Rác”, ông đã lột trần những tính cách của nhân vật thật sắc sảo, có khi đến độ tàn bạo, dã man và ở đó tình người như không hiện hữu. Nhưng không phải lúc nào cũng thế, tình bạn không phân biệt tuổi tác, tình người không phân biệt địa vị hay giàu nghèo vẫn bao trùm hiện diện trong tác phẩm này. Khi chúng ta ở cùng hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh đau thương hay tuyệt vọng, hay khi tầng số cảm thông của chúng ta giao thoa thì biên giới của tuổi tác không còn nữa. Chúng ta sẽ đọc được nhau!

 

Tôi xin trở về với tạp chí Văn, một chút về cơ mang nào mà tôi đến với tờ tạp chí Văn.

 

Sau 1975, tôi bị cắt đứt không thương tiếc với đời sống văn học miền nam và tôi phải tập tành làm quen với văn học sau 75. Rồi tôi vượt biên, một lần nữa tôi lại cắt đứt với văn học sau 75. Tôi ra đi và đến định cư ở miền bắc nước Mỹ, nơi rất ít người Việt và mùa đông lạnh lẽo vô cùng. Nơi mà mùa đông có khi lạnh đến trừ 50 hay 60 độ F bởi những luồng gió lạnh thổi về từ Bắc cực. Và tôi đã làm quen bằng đọc ké tạp chí Văn của anh tôi, lần đầu, với Văn ở hải ngoại nối dài Văn ở trong nước do Mai Thảo làm chủ nhiệm. Tôi không nhớ rõ năm nào, nhưng rất sớm của thập niên 80. Tôi chỉ có thể làm bạn độc nhất với tạp chí Văn và tôi nghĩ đó là người bạn văn chương đầu tiên của tôi. Tôi miệt mài đọc, miệt mài suy gẫm từng bài viết. Rồi bỗng nhiên, anh tôi không còn muốn sống nữa, anh đã tự kết liễu đời anh và Văn cũng đi theo anh. Tôi loay hoay với những quyển Văn cũ một thời gian và một hôm tôi quyết định bắt nhịp cầu trở lại và tôi đã tiếp tục mua báo định kỳ từ đó đến số báo cuối cùng của năm 2008.

 

Tôi đã không từng đọc thơ của ai ngoài những bài thơ mà tôi phải học ở trường. Tôi đã không từng mê thơ hay đã không từng làm thơ. Tôi đã không từng viết cái gì ngay cả nhật ký vậy mà nhờ những bài thơ xen kẽ trong tạp chí Văn, nhờ những bài viết ở trong tạp chí Văn, tôi đã, một hôm vào năm 2005, tôi đã có thể làm thơ, tôi đã có thể viết….Tôi nghĩ thế không biết là tôi quá chủ quan hay không? Nhưng dù bất cứ lý do gì đi nữa thì tạp chí Văn đã đưa tôi đến với thế giới thơ văn như là một món quà quí giá vô cùng, thì tôi cũng xin nói lời cảm ơn. Cảm ơn và ghi nhận rằng tạp chí Văn đã chọn một con đường để đi dù khó khăn, dù gập ghềnh, dù gian nan, nhưng đó là con đường mà hai bên đường là hoa thơm cỏ lạ. Và tôi đã bắt đầu đời sống thơ văn của tôi từ dạo ấy. Những bài văn, bài thơ của tôi đã làm đời sống tôi phong phú hơn, đã làm hồn tôi ấm áp hơn, và nhất là đã làm cái nhìn của tôi về đời sống mềm hơn, và yêu mến tha nhân hơn.

 

Và cuối cùng, nếu có dịp nào đó, tôi có thể ngồi đối diện với ông và nói lời cảm ơn trực tiếp đến nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng, chắc là lòng tôi đầy ắp những niềm vui. Cảm ơn tạp chí Văn và nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng. Cảm ơn ông đã cho tôi nhiều suy gẫm về những giá trị đạo đức tinh thần, những trăn trở của một chiều dài lịch sử, những khát vọng, những đớn đau của một thời tuổi trẻ, một thời đạn bom. Cảm ơn ông đã đưa triết lý vào đời sống văn chương thật tài tình, để những khô rốc của triết lý nở rộ trong đời sống hằng ngày. Tôi nghĩ là ông đã thành công trong sự nghiệp văn chương của ông không phải bằng số lượng mà bằng chất lượng ông đã cẩn thận chắt chiu. Tôi cũng xin nói thêm là những tác giả, những bài viết mà Văn đã chọn lựa đã xứng đáng đứng trong trời đất, của hôm qua, hôm nay và mãi mãi về sau.

 

Nếu có một ngày nào đó tôi có thể ngồi đối ẩm cùng nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng, ngày đó sẽ là một ngày hạnh phúc trong đời sống văn chương của tôi!

 

Nguyễn Kim Tiến

(22 tháng Sáu, 2012)

(Nguồn : https://sites.google.com/site/gsnguyenxuanhoang/home )

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Mười Một 202510:13 CH(Xem: 446)
Đêm qua bão đi ngang qua Qui Nhơn. Mưa to lắm, gió phần phật rít lên từng cơn mưa theo tiếng hú của mùa dông bão. May quá, tôi đã về nhà bình an. / Mấy ngày đi bụi, bù lăn bù lóc dầm mưa dãi nắng bên ngoài tôi sốt rồi. Hôm qua đầu choáng váng, nhức đau cả toàn thân; tôi ghé trạm xá đo huyết áp nhưng huyết áp không sao mà tôi sốt lên đến 40 độ... Là tôi đó, cái tuổi 60 đã già rồi mà lại không ở yên một chỗ cứ thích rong chơi. Đêm nay, tôi trùm mền nằm nghe bão dông, tôi lạnh đến run người. Thành phố lại bị cúp điện, điện thoại hết pin không thể sạc được, tôi nằm chờ trời sáng.
21 Tháng Mười 202512:14 SA(Xem: 1970)
Gặp gỡ trò chuyện với hậu duệ của cụ Mai Khắc Đôn, nghe kể một vài kỷ niệm về Hoàng Phi Mai Thị Vàng (Vợ vua Duy Tân, con gái của quan thượng thư Bộ Lễ Mai Khắc Đôn
13 Tháng Mười 202510:35 CH(Xem: 2706)
Duyên ngộ giữa tôi và Thụy Khuê lạ lùng như một sự ngẫu nhiên được an bài sẵn, chỉ đợi ngày tháng chín muồi là lóe lên như sao băng. Sự hiểu biết của Thụy Khuê, với tôi bắt đầu từ năm 2 đại học, hồi đó tôi khá mù mờ về văn học Việt, ngoài hai cái tên nổi tiếng đến mức quen thuộc là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh thì tôi không đọc ai, đúng hơn là mấy ông thầy, mấy đứa đàn anh khóa trên chỉ nói về hai người đó với sự ngưỡng mộ tới cuồng tín. Tôi kén văn học Việt bởi sự khó chịu ăn vào máu thuở học sinh, suốt ngày phải đọc mớ văn học cách mạng mà vẫn phải cố khen, tán láo để lấy điểm cho bài thi, đợt thi vào khoa viết văn, tôi lại phải ca tụng Chí Phèo của Nam Cao dù tôi đọc truyện đó tới phát ngán, nói thẳng, đọc xong tuyển tập Nam Cao, tôi thấy tay nghề viết của ông chỉ ở mức trung bình khá, văn thô, trần trụi, tả thực nhưng ngôn ngữ chưa sắc, thiếu biến hóa, tầm nhìn vẫn mơ màng, thành ra hồi đi học tôi chỉ đọc phần văn học nước ngoài, cứ dính mắt vào văn học Việt là buồn ngủ...
13 Tháng Mười 202510:11 CH(Xem: 2334)
Viện Bảo Tàng The Getty toạ lạc tại thành phố Los Angeles, CA, USA. đã tổ chức một buổi triển lãm hy hữu kéo dài từ tháng 6 đến 28 tháng 9 năm nay, 2025. Buổi triển lãm có tên là "Queer Lens" tập trung vào chủ đề Lịch Sử Nhiếp Ảnh của Người Đồng Tính là một cuộc trưng bày thật đặc biệt và vĩ đại của Viện Bảo Tàng to lớn và nổi tiếng ở Nam California, Hoa Kỳ này. Hơn 270 bức ảnh thể hiện những biểu hiện về giới tính và tình dục qua hai thế kỷ đã xuất hiện như một khiêu khích mà chỉ Viện Getty mới đủ can đảm để dàn dựng. Phải mất gần 6 năm để chuẩn bị, sưu tầm, cùng những cố gắng và nỗ lực của nhiều người, buổi triển lãm mới được ra đời.
11 Tháng Chín 20259:55 CH(Xem: 3705)
Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ cu Tèo nhà tôi đều phải đánh răng. Mẹ Tèo mua cho nó ống kem dành cho con nít vừa ngọt vừa thơm, tôi thích hôn vào hai má của nó. Những lúc như vậy nó cứ nói: -Bà Quại nói "cái mùi gì thơm thơm quá đi", đi Quại. -Ờ, cái mùi gì mà thơm thơm quá đi! -Dạ mùi của thằng Tèo. Con mới đánh răng đó Quại ơi! Nó thích được nghe như vậy. Con nít thường sún răng nhưng cu Tèo nhà tôi hàm răng không bị hư cái nào mà lại rất đẹp. Chạnh lòng tôi lại nhớ Ba tôi.
13 Tháng Tám 20252:40 SA(Xem: 5044)
Thời còn học Trung học, nhỏ là con bé chúa mơ mộng. Chỉ cần một chiếc lá rơi, một vạt nắng bên hiên nhà hay một cơn mưa bất chợt tình cờ cũng làm chao động tâm hồn đa cảm của nhỏ và cho nhỏ có một giấc mơ đẹp... Trường nhỏ học là trường Nữ Trung Học nằm sát biển nên rất nên thơ và đẹp. Ngồi bên song cửa sổ lớp học, nhìn ra sân trường có hàng dương liễu xanh cao vút rung đùa theo gió thổi vi vu. Có thể nhìn thấy biển xanh lấp lánh dưới ánh mặt trời và những cánh buồm xa xa tận tít chân trời thênh rộng.
26 Tháng Bảy 202512:13 SA(Xem: 4936)
Hồi mình sinh con gái bé Kim, rút kinh nghiệm từ đứa con đầu lòng là cu Vũ mình bị tắt sữa đến áp xe vú. Đến đứa này sữa cũng căng đầy mà không bị gì cả, con bé bú trực tiếp vú mẹ no nê.
29 Tháng Năm 20251:06 SA(Xem: 7326)
Ở đâu tôi không biết chứ ở làng quê tôi, điều này đến thế hệ mình ít thấy được duy trì cách gọi này. Thôi thì con cái họ, họ cứ gọi tên cũng được, không sao! Nhưng với người khác nhất là anh em họ hàng nhưng họ lớn tuổi hơn mình thì cần lưu ý cách xưng hô cho lịch sự, dễ nghe để hiệu quả giao tiếp được tốt hơn.
20 Tháng Năm 202512:46 CH(Xem: 8485)
Tin anh Trần Hoài Thư mất đã được nhà thơ Phạm Cao Hoàng thông báo cùng bạn bè đúng một tháng sau ngày chị Nguyễn Ngọc Yến, người vợ dấu yêu của anh ra đi (27-4-2024), vào sáng ngày thứ Hai 27-5-2024 cũng là ngày lễ Chiến sĩ trận vong (Memorial Day) của Hoa Kỳ. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên. Nhà văn nhà thơ Trần Hoài Thư là một sĩ quan thuộc QLVNCH ngày xưa và khi định cư ở Mỹ, anh cũng là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, đã cùng anh Phạm Văn Nhàn, một đồng đội và bạn văn thời trước, xuất bản tạp chí Thư Quán Bản Thảo và thành lập nhà xuất bản Thư Ấn Quán với chủ trương khôi phục và vực dậy di sản văn chương miền Nam. Nay thì người Chiến sĩ ấy đã trận vong. Thật buồn!
18 Tháng Năm 202511:27 CH(Xem: 9320)
Ngày 06.05.2010, cách nay 15 năm, tôi mất một người bạn thân và quý ở Hà Nội. Đó là anh Hoàng Cầm. Hoàng Cầm và Thái Bá Vân là hai người bạn HN mà tôi có tình thân và quý mến từ những năm 1990. Tình cảm này đã gây trong tôi những xúc động sâu xa khi mất đi các anh. Tôi không làm Thơ theo lối “khóc bạn” cổ điển. Những bài Thơ viết về các bạn đã mất là những cảm xúc của một tình bạn tuy không gian cách xa, nhưng rất gần gũi trong Tình, trong Thơ.