- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NHẠT NHÒA

08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 65739)





nmgiac_sach

Sách có in trăm cuốn

Đắp mặt chỉ một trang

 

Đàn chim với những con Rose breasted màu nâu nhạt, ngực đỏ;con Western King with fledgling cũng màu nâu nhưng cái cái ngực vàng hườm; con Red headed woodpecker mình gọi là chim gõ kiến có cái đầu màu đỏ, con Indigo Bunting tròn như con sáo quê nhà, nhưng lại xanh biếc như da trời. Tất cả bọn chúng, mỗi buổi sáng, theo nhau về ríu rít trong vườn nhà tôi. Chúng hót chiêm chiếp rộn rã ngay từ sáng tinh mơ, chúng thoáng sân trước trong những bụi tùng thấp, vụt vào sân sau trong vòm cây Mộc Lan (Magnolia), tranh nhau ăn ở cái máng thực phẩm treo đong đưa trên một cành cao. Chúng đến ngày giờ nào không rõ rệt, chỉ biết chúng đến cùng với nắng, chúng đến sau những cơn mưa.Thấy chúng đến, biết là mùa hạ đến. Khi không thấy chúng nữa, biết thu về.

 

Trong tháng sáu kéo sang tháng bẩy năm nay, tôi đón tiếp khá nhiều khách: chị Bích Hà từ quận Cam của California đến chơi mười ngày, ông anh tôi mang theo một người bạn từ Virginia đến chơi một tuần, vợ chồng cậu em từ Việt Nam sang năm tuần (đi chơi vài tiểu bang khác xong lại quay về Seattle), cậu cháu từ Pháp sang bốn ngày. Tất cả sáu người. Họ đến và đi khác ngày nhau, nhưng tôi biết rõ ngày giờ của từng chuyến bay. Vì ít ra ngay ở thời điểm này, họ có đủ sức khỏe để xắp xếp cho những chuyến đi của họ. Như những con chim mùa hạ, họ biết nơi đến, nơi đi và nơi trở về.

Anh Nguyễn Mộng Giác, người bạn văn của tôi, đã bẩy năm nay, anh không có thể tự xắp xếp cho mình đi đâu, về đâu. Anh đi theo chỉ thị của bác sĩ, của bệnh viện, của hospice Cuối cùng, vào một ngày nắng hạ năm nay, anh đã theo cánh tay của vợ con trở về nhà, nằm trên giường của mình, rồi nhẹ nhàng nhắm mắt, xuôi tay, bỏ đi hẳn, không quay lại nữa.

 

Anh bỏ đi đâu tôi không biết, vì nơi anh đến, vợ con anh và chúng tôi, tất cả những bạn anh còn ở trên mặt đất này, chưa ai đến đó bao giờ. Anh bỏ lại tất cả những trang sách anh đã viết. Hai tập trường thiên tiểu thuyết, nhiều tập truyện ngắn. Anh không mang được trang sách nào cùng đi với anh cả. Hơn bẩy mươi năm trước anh đến với cuộc đời, chẳng mang theo một chữ nào, ngoài một tiếng “oe” thảng thốt. Bây giờ đi cũng phải để lại tất cả những “tài sản” anh tích tụ được, dù đó chỉ là những trang giấy và những con chữ. Như tất cả bạn anh: những nhà văn, nhà thơ khác, đã qua đi trước anh, họ đã đánh rơi tất cả những gì họ viết xuống, khi những bàn chân không còn giẫm trên mặt đất này.

 

Sách có in trăm cuốn

đắp mặt chỉ một trang

thơ có viết ngàn quyển

còn lại chỉ một hàng

một hàng thơ nằm thẳng

giữa vách gỗ thơm hơi

“Xử thế nhược đại mộng” (1)

Tử sinh một tiếng cười (tmt)

 

Thật vậy, nếu theo như phong tục cũ ở quê nhà, người ta thường lấy một vuông vải trắng mỏng hay một tờ giấy bản đắp lên mặt người vừa mới qua đời, để xem còn thở hay không? cũng để tránh, không muốn ai nhìn thẳng vào mặt người chết (vì sợ chạm vía) Anh Giác mà được ai đó, xé một trang sách của anh, đắp lên mặt mình thì chắc anh mãn nguyện lắm!

Như vậy thì số giấy dùng để in những con chữ anh Nguyễn Mộng Giác viết xuống quả có hơi nhiều so với số giấy anh cần mang đi với mình ở giờ phút lìa đời.

Không biết những người thân yêu trong gia đình, khi khâm liệm, có ai nhớ đặt một cuốn sách của anh vào áo quan trước khi hỏa thiêu không nhỉ.

 

Trong thời gian dài nằm trên giường bệnh, thỉnh thoảng bạn bè xa, gần, rủ nhau ghé viếng thăm anh. Chụm đầu vào nhau nói chuyện văn chương, chẳng bao giờ thấy ai đặt ra câu hỏi: “Liệu khi mình đi ra khỏi cuộc đời này, mình có muốn tiếp tục làm văn chương không?” Nếu có ai đặt ra câu hỏi đó thì anh Giác sẽ trả lời như thế nào?

 

Chúng ta đến đây, đặt bàn chân nhỏ trên mặt đất này, trưởng thành, và già đi, chúng ta biết mình muốn làm gì, muốn ở đâu. Chúng ta tìm đủ cách để đạt được cái nhu cầu ở đâu và làm gì. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, biết nhu cầu của anh là cần sống ở một vùng đất an bình, tự do, để anh được viết như được thở. Anh đã dùng chính mạng sống mình, vượt qua bao nhiêu biển, bao nhiêu núi, bao nhiêu con đường khó đi, để đến được vùng đất cho anh thở và viết tự do. Suốt chiều dọc của cuộc đời, anh luôn luôn dính liền với “Chữ”. Từ dậy học, làm việc cho Sở Học Chánh, đến viết văn. Định cư ở Mỹ anh tiếp tục viết văn, làm báo văn học, ngay cả để mưu sinh anh cũng chọn được việc làm in, ấn cho đến lúc về hưu. Hai bàn tay anh lúc nào cũng chạm vào những công việc của mực và giấy. Anh sống hạnh phúc trong môi trường này. Trong nhiều năm, ngôi nhà ở đường Strait, Westminster, miền Nam California, được bạn bè tứ xứ khi đến quận Cam, coi như một cái “Câu Lạc Bộ Văn Nghệ” Cuối tuần ghé đến thế nào cũng thấy tụ họp, tiếng nói, tiếng cười, trong một tương giao thân mật tràn ngập không khí văn chương, sách vở, Những tên tác giả, tên sách trong và ngoài nước, những nhóm sinh họat văn học, những cấm kỵ văn chương, những cuốn sách mới xuất bản, những ngôn ngữ đổi mới…. Sóng sánh trong những ly rượu đỏ, uống cạn cùng với tiếng cười.

 

Bây giờ anh lại tiếp tục đi nữa, anh có chọn đi không nhỉ? Anh đến chỗ người ta gọi là “Niết Bàn” là “Thiên Đàng” anh có tiếp tục làm một nhà văn nữa không? Hay được đổi đến một nơi không có một lằn ranh biên giới nào của tư tưởng, người ta sẽ không còn nhu cầu viết nữa. Những người bạn đi trước anh, có rủ anh lập một cái “Câu Lạc Bộ Văn Nghệ” mới ở nơi đó không?

 

Hôm thứ bẩy, ngày 7 tháng 7 năm 2012, chúng tôi đến dự lễ giỗ năm thứ 49 của nhà văn Nhất Linh tại tư gia của anh Nguyễn Tường Thiết, người con út cụ, Trong khi im lặng nghe anh Thiết thổi khẩu cầm trước bàn thờ, hồi tưởng lại ký ức những tiếng nhạc của cha lúc còn sinh tiền đã thổi cho mình nghe. Tiếng nhạc quyện bay lên cùng với khói nhang nhạt nhòa, thơm ngát trước hình ảnh của người đã bỏ ra đi. Tôi hình dung ra cũng trong giờ phút này, gia đình anh Nguyễn Mộng Giác và bạn hữu đang tụ tập cầu siêu cho anh ở quận Cam, miền nam Cali. Những lời chia buồn cũng sẽ lững lờ, nhạt nhòa quyện vào hương khói, khăn tang và những đóa hoa.

 

Ai đó đã nói: “Thượng Đế rót đời sống vào cõi chết, rót sự chết vào cõi sống, không để rơi ra ngoài một giọt nào” (2)

Chúng ta có được chứng kiến khi Thượng Đế làm công việc “rót” đó không?

 

Tôi nhớ ở trung học, khi thầy giáo dậy về cái bình thông nhau, thầy cầm cái bình nghiêng qua, nghiêng lại, mực nước ở hai bên bao giờ cũng bằng nhau khi cái bình đặt đứng thẳng.Thượng Đế chắc cũng rót sống, chết vào nhau ở một cái bình như thế.

Nhất Linh, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Giác, …và những người cầm bút khác, còn sống hay đã chết, tất cả chỉ là những giọt nước trong cái bình thông nhau. Ở cái bình thông nhau đó, Thượng Đế rót qua, rót lại, không rơi ra ngoài một giọt nào.

 

Phải chăng, những con người được gọi là văn nhân, nghệ sĩ họ là những giọt nước đặc biệt của Thượng Đế, nên dù ở trong cái bình “Sống” hay “Chết” những giọt nước mong manh này vẫn óng ánh, trong suốt, tinh khôi, dù có bốc hơi nhạt nhòa bay đi nhưng không bao giờ mất dấu.

Những suy nghĩ, tư tưởng, cảm xúc của các văn nhân, thi sĩ đã viết xuống, những cuốn sách của họ đã in ra, để lại những dấu ấn nhạt nhòa nhưng vĩnh viễn trong tâm những ai đã đọc, cảm thông và đã chạm tay vào giấy mực với sự quý trọng.

 

 

Trần Mộng Tú

 

Viết sau ngày ra đi của Nguyễn Mộng Giác.(mồng 2 tháng 7 năm 2012)

 

(1)- God pours life into death and death into life without a drop being spilled

 (Author Unknown)

(2)Xử thế nhược đại mộng/Hồ vi lao kỳ sinh (thơ-Lý Bạch)

 Cuộc đời như giấc chiêm bao/Việc chi ta phải lao đao với đời (dịch-tmt)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
31 Tháng Ba 201911:38 SA(Xem: 21080)
Mảnh giấy không đề tên người nhận, cũng chẳng ký tên người viết, song tôi thuộc tuồng chữ của Thiện, cái tuồng chữ với những phụ âm d, đ, t, th, k, kh, vân vân... đâm thẳng lên trời và cao hơn bình thường như muốn nổi loạn, và những nguyên âm thấp, cam phận, tự nén. Bên dưới hai câu thơ là dòng chữ vỏn vẹn: "Nếu không đoán được ai là tác giả của hai câu thơ trên thì sẽ không về nữa."
20 Tháng Hai 20198:42 CH(Xem: 24008)
Hôm nay, một ngày đầu năm, nơi tôi ở trời lấm tấm mưa và sương mù còn giăng mắc mặc dù đã 10 giờ sáng. Có lẽ không hạnh phúc nào bằng ngồi trước lò sưởi với ly cà phê và vài cuốn sách -- chính xác thì phải nói là với mấy Web sites sách điện tử, hay e-book, trên cái iPad. Bằng hữu ở xa, giờ già cả cũng ít hoặc hết còn đi thăm nhau được. Ngoài trao đổi điện thư ngày một thưa thớt, chỉ còn cái thú làm bạn với sách. Thú thật chưa bao giờ tôi đọc sách báo nhiều như những lúc về sau này.
25 Tháng Giêng 20198:02 CH(Xem: 24945)
Từ Huế ra đến Quảng Trị mấy ngày đầu năm 2019 là những ngày ủ dột mưa. Sau bài viết: Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ở Hải ngoại. VOA 07.06.2018, tôi có ước muốn trở lại thăm Nhà thờ Đức Mẹ La Vang Quận Hải Lăng Quảng Trị, nơi đã từng có một quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo của Giáo sư điêu khắc Lê Ngọc Huệ cùng đám môn sinh trong đó có Mai Chửng với chủ đề Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi. (3)
03 Tháng Giêng 201910:50 CH(Xem: 21098)
Đêm ấy, một đêm Giáng Sinh rất lạ, sau ngày giải phóng đất nước một năm.1976. Là đêm Giáng Sinh thứ ba, tính luôn cái năm tôi đi sư phạm xa nhà, tôi không còn cùng bát phố với lũ bạn ngoại đạo trong cái thành phố nhỏ nhoi yêu mến tôi đã sống; nhưng vẫn da diết nhớ Giáng Sinh với những chiếc xe hoa lấp lánh, diễn hành dưới màn mưa lạnh, quanh mấy con phố nhỏ; những cỗ xe luôn mang đến một không gian tượi mới và tràn trề hy vọng. Khi còn hy vọng, là người ta còn mơ ước. Khi còn mơ ước,là người ta còn tin yêu cuộc sống này.Và người ta luôn trông chờ điều đó.
04 Tháng Mười Hai 201811:05 CH(Xem: 22794)
Từ một vùng đất hoang vu của dân tộc thiểu số thuộc bộ tộc K'Ho hiện nay, sau khám phá của bác sĩ Yersin (tháng 6 năm 1893), người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên thành phố Đàlạt. Đàlạt trở thành một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương trong nửa đầu thế kỷ 20.
11 Tháng Mười 201811:48 CH(Xem: 23825)
Lễ Quốc Tang của Chủ tịch nước Trần Đại Quang dù được tổ chức trọng thể tại cả ba nơi Sài Gòn, Hà Nội, Ninh Bình; và mặc dù nghĩa trang của ông rất lớn, nó chiếm một diện tích lên đến gần 30,000 m2, chúng ta vẫn thấy sự ra đi của ông rất mờ nhạt.
07 Tháng Mười 20189:13 SA(Xem: 24027)
Sinh ngày 6/10 Nhâm Ngọ, tức 13/11/1942, tại thôn “Me Vừng,” làng Phụng Viện thượng Hải Dương, Bình Giang, Hải Dương—nhưng trên khai sinh, đề ngày 6/0/1942—tôi có một lá tử vi khá kỳ lạ. Giáo sư Nguyễn Bỉnh Tuyên—một lãnh tụ Đại Việt Quốc Xã, thày dạy kèm chữ Pháp cho tôi trong hai năm Đệ Tam, Đệ Nhị (1957-1959)—nói tôi có số “ở tù;” nên “ở lính” có thể giải thích như ở tù. Mãi tới năm 1971, bác Phan Vọng Húc—bạn cha tôi ở Hải Dương, phụ thân nhà thơ Phan Lạc Giang Đông—mới đưa ra lời giải đoán khá chính xác: Tôi có số “Ngựa Trời,” sẽ xuất ngoại, đỗ đại khoa, và thọ tới hơn 70.
13 Tháng Chín 20189:07 CH(Xem: 23665)
Sáng nay vừa ra khỏi ngân hàng, tôi ghé vào siêu thị mua tấm thiệp sinh nhật cho ba chồng. Dòng chữ được giác bạc ngoài tấm thiệp đề "For a great Dad..." đầy yêu thương, trân trọng. Vừa lúc đó tôi nhận được điện thoại từ chị gái. Linh cảm bất ổn vì lúc đó đã 10 giờ tối ở VN. Giọng chị hớt hãi "Yến ơi, Ba đi rồi...". Trên tay tôi vẫn cầm tấm thiệp. Vài giây trước đó khi đứng chọn tấm thiệp vừa ý nhất, tôi chợt nghĩ "Vì sao mình chưa bao giờ có được may mắn tặng cho ba mình tấm thiệp nào có nội dung như vậy. Vì sao ba mình không là một người great Dad như bao nhiêu người vẫn tự hào tặng thiệp cho ba họ trong ngày sinh nhật như chồng mình vẫn làm mỗi năm?".
24 Tháng Tám 20187:38 CH(Xem: 25837)
Tôi khởi viết những trang Nhật Ký Cuối Đời này, từ đầu năm 2016, sau ngày mẹ tôi từ trần tại Los Angeles, CA, ngày 27/11 Ất Mùi, tức Thứ Tư, 6/1/2016. Mẹ sinh ngày 7/3 Mậu Ngọ [7/4/1918], tại Phụng Viện thượng, Bình Giang, Hải Dương, thọ 99 tuổi ta. Cha tôi, sinh ngày 27/3 Mậu Ngọ [27/4/1918], mất sớm, ngày 8/3 Kỷ Mùi [4/4/1979], khi mới 62 tuổi, ở Sài Gòn. Khi gia đình ly tán—tôi lưu vong ra hải ngoại, anh trai tôi bị đưa ra bắc “cải tạo”—thuật ngữ tuyên truyền xảo quyệt của những người tự nhận Cộng Sản, dù chẳng hiểu Cộng Sản là gì, và trên thực chẩt, chỉ vẹt nhái theo Trung Cộng, vì Karl Marx và Friedrich Engels không hề nói đến góp chung tài sản, mà chỉ hoang tưởng ngợi ca một xã hội nguyên thủy công hữu [communism].
17 Tháng Bảy 20182:02 CH(Xem: 22814)
Có thể nói Luật Đặc Khu và cuộc trấn áp ngày 17/6 đã biến những người dân VN bình thường trở thành những nhà hoạt động. Và đó là khởi đầu một “cuộc chiến” mới. Trong cuộc chiến này, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ phải đương đầu với một sức mạnh mà họ thầm hiểu rằng với nó; quân đội, súng ống, xe tăng,… hỏa lực dù mạnh thế nào cũng chỉ là bùn đất!