Tháng 10, năm 1999, lần đầu tiên tôi gửi bài cho
báo Văn Học. Gửi thử thôi. Không có hy vọng báo đăng. Một vài cây viết kỳ cựu
trước 1975 bảo tôi, Văn Học, Văn “tuyển” bài lắm. Có người còn dọa, làm thơ
phải biết “nhậu”, viết văn phải biết xã giao, phải có quen biết, có gửi gắm,…
Đóng cửa như tôi thì viết có mà để giun dế đọc.
Tôi không tin. Một nhà văn đích thật, tự nhiên sẽ
quý văn người như văn mình.
“Không tin ư?” Bạn tôi nói. “Văn của Dương Nghiễm
Mậu từng bị quăng vào sọt rác, thơ Nguyễn Tất Nhiên cũng phải luồn cúi mới được
đăng.”
Tôi xót xa, “Thế còn gì là văn chương?”
Cả ngày, tôi lan man thương cảm cho những ngòi bút
đã mịt mùng trong quên lãng.
Bạn tôi “bồi” thêm, “Vì sao mà Đối Diện, Trình
Bày, Ý Thức,… ra đời? Vì sao có những tên tuổi bây giờ lại chưa từng có mặt
trên Bách Khoa, Văn Học, Văn,… thuở trước?”
Trong tích tắc, lòng tôi bỗng chùng xuống.
Rượu, tôi không uống. Xã giao, tôi không thích.
Phe nhóm, tôi không ưa. Tôi thở dài, liều mạng tuyên bố một câu xanh dờn. “Được
thôi. Vậy thì tôi sẽ viết để giun dế đọc.”
Qua ngày hôm sau, Văn Học email hồi âm. Ông Nguyễn
Mộng Giác viết vài lời nhận xét và khen ngợi. Tôi hồi âm, kiệm lời, kiệm ý. Và
tự răn mình trước những lời khen. Lời khen giống như một thứ rượu ngon, dễ quá
chén.
Mấy ngày sau, hơn mười giờ tối, ông Giác gọi hỏi
thăm. Giọng ông hòa nhã, vui vẻ. Ông tỏ ý thích những tư tưởng trong bài và
nhắn nhủ mong có sự hợp tác dài lâu. Sau này, qua một vài người quen, tôi vở
lẽ, ông gọi bất ngờ chỉ để kiểm chứng coi tôi có phải là phụ nữ thật không.
Năm 2001, tôi có dịp đi Cali và đến thăm “tòa soạn” báo Văn Học. Đó
là căn nhà riêng của ông Nguyễn Mộng Giác. Đó cũng là căn nhà chung của giới
văn nghệ sĩ. Ông Giác dẫn tôi đi loanh quanh xem góc làm việc của tờ Văn Học,
chỗ garage làm kho chứa báo.
Với những người viết, sự gặp gỡ chỉ là cơ hội để
kiểm chứng giữa văn và người. Bởi họ đã quen biết nhau qua tác phẩm. Nhưng
Nguyễn Mộng Giác đã đưa tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Cảm giác ngạc nhiên đầu tiên, ông là người đàn ông
không đẹp trai. Nhưng càng nói chuyện, tôi càng bất ngờ. Bên trong cái bề ngoài
thô ráp kia là một tâm hồn tinh tế, tỉ mỉ, sâu sắc và đẹp. Đẹp đến xúc động.
Trí nhớ tôi bất chợt lui về trên những trang sách. Loáng thoáng, tôi bắt gặp
vài nét quen quen trong những nhân vật của ông. Ông Giáo Hiến, Lãng, người tù
cải tạo, anh chàng kéo vĩ cầm,… đều đang lẩn quất đâu đó.
Câu chuyện văn học lan man đủ thứ. Mỗi người góp
một chút. Tôi im lặng ngồi nghe những khúc chắp nối, không đầu không đuôi. Có
người ngắt một vài giai thoại trước 75, chị Chi kể một vài kỷ niệm khi anh Giác
viết Sông Côn Mùa Lũ, ông Giác nói về giai đoạn khó khăn khi bắt đầu làm tờ Văn
Học, và những khuynh hướng mới, những người mới trong giai đoạn sau này ở hải
ngoại.
Khi câu chuyện bắt đầu lơi, mọi người quay sang
nhận xét về tôi. Ông Giác tiên đoán, sau này tôi sẽ là một cây viết độc lập,
không giống ai. Có nghĩa là, (ông giải thích thêm), tôi sẽ đứng một mình một
cõi.
“Một mình một cõi?” Tôi lớ ngớ hỏi, “Cõi nào?” Lập
tức, trong đầu liên tưởng ra những chủ đề mình đang viết.
Ông Giác nói, thông thường những người mới viết
đều viết truyện về mình, sau mới viết về người. Tại sao tôi không viết về mình.
Hay truyện tình, chẳng hạn. Tại sao không?
Tôi cười cười. Nói về mình? Truyện nhạt mất. Còn
truyện tình. Là chuyện nhỏ. Ở mỗi một chuyện tình ngang trái đều có một cái
gút. Cái gút ví như hòn sỏi nhỏ trong đôi giày. Tôi không hiểu sao, các tác giả
thường bắt những nhân vật chính mang đôi giày đi một cách khốn khổ từ đầu tới
cuối truyện.
Ông cười khuyên, vậy thì tôi nên viết truyện dài.
Thời gian sau, Văn Học giao cho nhà văn Cao Xuân
Huy. Tôi không còn liên lạc với ông như trước. Thỉnh thoảng, tôi lục bài viết
của ông, đọc đi đọc lại. Còn ông, cũng đọc những bài viết của tôi đăng trên net.
Hai năm sau này, thỉnh thoảng bạn bè ở Cali báo tin sang. Tôi
mới gọi điện thoại thăm. Chị Diệu Chi kể sơ sơ về bệnh tình. Ông Giác bắt điện
thoại. Ông lại nhắc tôi viết truyện dài. Giọng ông vẫn hăm hở. Hình như câu
chuyện hôm nay vẫn đang tiếp nối cuộc chuyện trò của mười năm trước. Lời đồn
quả không ngoa. Lòng đam mê văn chương đang thổi rốc lên một tia lửa, làm hồi sinh
một thân xác đang suy tàn.
Vẫn biết “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử?”, tôi khuyên
mọi người, nhưng không khuyên được chính mình. Những vì sao trong văn học cứ
rơi rụng dần.
Biết ông bệnh nặng, nhưng tôi không đi thăm. Không
có người đàn ông nào muốn người phụ nữ thấy mình trong tình trạng đang suy
kiệt. Tôi cứ ngồi nhà mà nghĩ tới ông, thì cũng được. Nói đúng ra, tôi muốn giữ
hình ảnh nhà văn Nguyễn Mộng Giác thời nào của tờ Văn Học. Một người trí thức
điềm tĩnh, hiền hòa, mô phạm. Một ngòi bút sâu sắc, tinh tế, đầy nhân bản. Một
phong cách điển hình cho văn nghệ sĩ Miền Nam. Một loại “thạch trung ẩn ngọc”
phải lôi trôi, luân lưu theo thời vận.
Tin ông qua đời không làm tôi ngạc nhiên. Tôi
chuẩn bị tinh thần đã nhiều lần trước đó. Dù vậy, vẫn không tránh khỏi sự xúc
động. Xúc động đến lao đao. Mấy hôm nay ra vào, tôi cứ ngẩn ngơ.
Sau cái chết, linh hồn người ta đi đâu?
Lên thiên đàng? Xuống địa ngục? Hay lạc bước về
đâu trong chốn vũ trụ khôn cùng?
Còn người viết, linh hồn của họ sẽ về đâu?
Tôi lên net, đọc lại bài
Bầu
Ơi, Thương Lấy Bí Cùng. Bất chợt, gặp ông sống dậy trong vai người tù
cải tạo.
… Tôi cố giữ trầm tĩnh ngồi
bó gối nhưng trong lòng như có ai đốt lửa. Nhà tiếp tân vắng dần. Bốn giờ 23,
rồi bốn giờ 24 phút. Đúng 4 giờ 25 thì chuyến tàu chợ từ Sài Gòn lên xình xịch
đỗ ngoài ga. Niềm hy vọng của tôi đây. Không dằn được nữa, cả tôi lẫn cụ thiếu
tá đều đứng bật dậy dợm chạy ra nhà tiếp tân. Tôi đã không lầm. Lúc hồi kẻng
báo hiệu giờ thăm nuôi đã hết uể oải điểm đều từng tiếng, tôi thấy mẹ và em tôi
vội vã xách hai cái giỏ lát khá lớn chạy từ nhà ga vào cổng trại. Em gái tôi
gầy gò, mẹ tôi già yếu, nên thấy dáng hối hả của hai mẹ con, tôi xúc động quá
bất giác kêu lớn:
- Mẹ, con đang chờ đây!
Có lẽ tiếng gọi của tôi bị
gió rừng bạt mất, vì tôi không thấy mẹ và em tôi quay lại. Anh vệ binh đứng
tuổi mang kính râm giữ việc kiểm soát giấy phép đã đứng dậy ra về, toán thân
nhân đến trễ đang bu quanh anh, nét mặt người nào cũng khẩn khoản, chới với. Họ
năn nỉ gì đó, nhưng tôi thấy anh vệ binh cứ lắc đầu. Một bà cụ nắm tay anh nói
một hồi. Anh ta chăm chú nghe, nhưng đưa tay lên xem đồng hồ, rồi cương quyết
lắc đầu. Đến phiên mẹ tôi chen vào. Mẹ tôi nói gì tôi không rõ, chỉ thấy mẹ tôi
vừa nói vừa trỏ về phía nhà ga. Có thể bà cụ đang đổ lỗi cho chuyến tàu chợ trễ
nãi. Anh vệ binh vẫn lắc đầu. Nóng ruột quá, tôi liều lĩnh bỏ chỗ gốc sấu chạy
đến khu thăm nuôi. Tôi nghe rõ mồn-một giọng Nghệ Tĩnh giận dữ tức tối của anh
ta:
- … Các người còn muốn đòi gì
nữa? Chồng con các người mang tội với nhân dân phải học tập cải tạo nhưng còn
có ngày được về. Còn tôi đây này, nhập ngũ từ 1965, đi khắp các chiến trường
cho đến lúc về ở cái xó rừng này, biết bao giờ tôi mới được về? Chồng con các
người còn được tiếp tế giỏ này giỏ nọ. Còn tôi đây, vợ con không có đủ tiền gửi
cho lấy một cái kẹo. Các người có dư tiền để mua vé xe lửa lên đây thăm nuôi.
Vợ tôi biết tôi ở đây từ hơn hai năm nay, chưa thấy mặt tôi gần bảy năm rồi mà
không có đủ tiền mua lấy cái vé xe hạng chót! Các người còn đòi gì nữa!
Nghe lén được mấy câu đó, tôi
sững sờ đến nổi gai ốc. Tôi va đầu vào cái tường sự thật tàn nhẫn nên choáng
váng. Người tôi ngây ngây, quên cả ý định lên tiếng để mẹ và em tôi trông thấy.
Có lẽ các thân nhân đến trễ cũng có tâm trạng y như tôi, nên nghe anh vệ binh
nói xong, họ tản ra hết. Đã nói đến nước đó thì nằn nì cũng vô ích, nên tôi
thấy mẹ và em buồn bã xách đồ ra ga mà không biết phải làm gì. Cuối cùng tôi
chỉ còn biết sợ! Tôi nháy mắt ra hiệu cho cụ thiếu tá hồi hưu, rồi se sẽ nép
vào các gốc cây để trở lại chỗ cũ. Chúng tôi về trại tay không, lòng vừa buồn
rầu vừa hoang mang thật khó tả. Anh vệ binh già cầm xấp giấy phép hướng dẫn
chúng tôi vào. Nét mặt anh lầm lì, bước chân nặng nề, đầu cúi xuống. Chiều ở
rừng buốt lạnh. Chuyến tàu chợ ngược về Sài Gòn xình xịch đỗ ở cái ga xép.
Tiếng còi tàu khao khao hơi nghẹn. Cổ họng tôi cũng nghẹn. Buổi tối hôm đó tôi
nằm riêng một góc không tham dự cuộc vui chung. Các bạn tưởng vì không được
thăm nuôi tôi buồn, nên ân cần đem đến tận chỗ tôi nằm mời ăn hết thức này đến
thức khác. Tôi cầm cho họ vui lòng, nhưng không thể nói hết lý do nỗi hoang
mang của tôi.
Tôi tiếp tục được hưởng sự ân
cần mời mọc của bạn bè suốt nửa tháng thăm nuôi còn lại. Thật ngược đời! Trong
láng, tôi và cụ thiếu tá bảo an hồi hưu trở thành hai đứa trẻ được nuông chiều.
Tôi ăn uống sang trọng phủ phê còn hơn cả những người được thăm nuôi đầy đủ. Nhưng
“sự phồn thịnh ấy giả tạo” đúng như bài học chính trị chúng tôi học thuộc làu
trong năm đầu. Lúc các thức ăn chơi đã cạn và trong giỏ xách từng người chỉ còn
lương khô, thì ai ai cũng lo tính đến đường xa. Kỳ thăm nuôi sắp tới chưa biết
lúc nào, sức mang, xách, khiêng, đội, gánh gồng của những người vợ héo hon
những bà mẹ già nua những đứa em yếu ớt thì có hạn. Cho nên ai cũng phải dè
xẻng tính toán từng mẩu bánh khô, từng nắm cốm dẹp. Không muốn ích kỷ cũng phải
đâm ra ích kỷ. Tôi trở lại sống nghèo đói đúng 100% nghĩa đen giữa đám bạn bè
tương đối đầy đủ. Tinh thần tôi còn sa sút hơn trước. Không còn sự bình đẳng
trong thiếu thốn nữa, nên tôi và cụ thiếu tá thui thủi một mình, mỗi lần thấy
ai mở giỏ lương thực hoặc nấu nướng thứ gì, phải tìm cách lánh đi chỗ khác để
họ khỏi khó xử. Và thành thực hơn, phải nói thêm là để đỡ thèm thuồng! Đã thế
hình như ban quản giáo ỷ y vào đồ thăm nuôi nên lặng lẽ rút bớt tiêu chuẩn cấp
phát xuống. Tôi đói mà không kêu ca than van với ai được! Kêu ca với các cán bộ
hoặc vệ binh ư? Lỗi tại mẹ và em tôi đi trễ chứ đâu phải tại tổ chức! Than van
với bạn bè thì có khác nào xin khéo để buộc họ bố thí. Cụ thiếu tá đã trên 60
ăn uống nhỏ nhẻ và giỏi chịu đựng như đã từng chịu đựng cuộc đời 60 năm dài.
Còn tôi, sức tôi còn trẻ. Tôi cần ăn nhiều. Tôi mới 24 tuổi. Nhưng lấy gì bỏ
vào mồm bây giờ?
Đọc tới đây, tôi đâm ra thương anh tù trẻ này quá
đỗi. Trong lúc đói tới hoang mang mà vẫn coi nhân cách nặng hơn cái chết. Con
người hơn con vật chỉ vì cái cách ăn.
Nhưng điểm nhất của bài này là ở câu kết. Cái đoạn
sau kể về một đêm tối canh rẫy bắp. Người tù và kẻ canh tù chạm trán trong khi
“ăn cắp” bắp. Dù bắp do chính tay mình trồng. Cả hai cùng “giành quyền làm chủ
ngang xương”
… Bầu ơi, thương lấy bí
cùng.
Tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn.
…Từ lâu, tôi vẫn nghĩ lẩn
thẩn: không biết người nghệ sĩ nào đặt ra hai câu ca dao đó, có tiên đoán tác
phẩm của mình về sau lại được sử dụng vào hoàn cảnh oái oăm như thế không? Tôi
nghĩ rằng có, vì đôi mắt nghệ sĩ có thể nhìn suốt chín cõi. Kể cả cảnh hai
chúng ta lén ăn bắp nướng, phải không?
Đóng trang sách lại. Bây giờ thì tôi tin, sau khi
chết, người viết sẽ lại trở về giữa những dòng chữ của mình. Ví như một vì sao
tắt, còn để lại trên bầu trời những dấu vết lấp lánh.
Sao ơi!
ntta
7/7/2012
Nguồn: http://damau.org/archives/25063