...là Trịnh Công Sơn và Khánh Ly (TCS-KL). Tên họ, không cần nhắc. Bóng dáng họ, lẩn quất, vẫn đâu đây. Và trong tôi, hai lần hội ngộ.
*
Lần thứ nhất, ở
Sơn hát ở Nhà Việt
Khánh Ly qua
Trong không khí căng như một sợi
dây đàn chỉ chực đứt, Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly ở
A, cái thời phải quên là thời
nào. Có phải thời Khánh Ly là nàng Mai hát ở một phòng trà trên Đà Lạt trong
đêm mưa cao nguyên buồn lắng? Không đâu, có lẽ nào. Chắc chắn là thời nàng
xuống núi, vào Sài Gòn những năm 66-67, đi chân đất hát cùng với chàng trong
khuôn viên Đại Học Văn Khoa, trên bục quán Văn xác xơ ghế bàn nhưng thấm đậm
tình người. Và hát những ca khúc phản chiến. Sơn cho ra đời Ca khúc Trịnh Công
Sơn năm 1966, và rồi Ca khúc da vàng (đầu 1967), Kinh Việt
TCS-KL hát gì? Xin trích dăm ca từ trong Ca khúc da vàng.
Từ hiện thực trần trụi:
Ghế đá công viên
Dời ra đường phố
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi...
đến những giọt nước mắt:
...Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phải long đong
qua giai điệu uất nghẹn cho cuộc trần ai:
... Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
còn có ai
không còn người...
và rồi, chết thì :
...xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng
trên nóc nhà thành phố, trên nhữngđường quanh co
xác người nằm chơ vơ, dưới mái hiên chùa
trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu...
Nhưng ám ảnh là những câu hát siêu thực, hình thể văn chương vứt vào ao tù thứ ngôn ngữ duy lý, thét gào tâm cảnh phi lý, thậm chí bệnh hoạn, của một thời bình thường-là-bất-khả:
,,,mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
chị vỗ tay hoan hô hòa bình
người vỗ tay cho thêm thù hận
người vỗ tay xa dần ăn năn
Hát những ca từ trên, hát thế nào? Thanh Thúy? Chị hát Thương một người, tuyệt vời. Hay Lệ Thu? Ướt Mi, chắc bất hủ...
Còn Ca khúc da vàng, âm sắc thế nào cho hòa nhịp với chất trong ca từ. Phải hát như con trẻ vừa lớn, còn hồn nhiên, nhưng nay đối mặt với một thực tại bi thương. Phải hát giọng những âm hồn chưa muốn rời dương thế, hát để chống lại tai ương chết chóc. Phải hát, như cầu kinh, những bài kinh gầy lửa hy vọng và đánh thức sức tồn sinh để đối mặt vào sự hủy hoại đầy nghịch lý nhưng không khoan nhượng của con người với con người. Những con người cùng một mầu da. Da vàng.
Khánh Ly đã hát như thế, giọng đến từ một thế giới bên cạnh cõi chết, nơi thần linh cũng như yêu ma còn đó, một bên nhắc nhở rồi ta phải thấy mặt trời, bên kia tung hô ca ngợi hận thù của những màn đêm u mê.
Khánh Ly đã hát như thế, bởi nàng cảm được nghệ thuật của họ Trịnh. Cảm được nỗi lòng họ Trịnh.
Khánh Ly hát được như thế vì nàng đồng thời tiếp cận sâu sắc cái thảm thương của một thế sự thăng trầm qua xương máu của hàng trăm ngàn sinh linh bơ vơ trên một chặng đường vô định.
Khánh Ly hát để cùng Trịnh Công Sơn đối kháng hiện thực bằng cách dựng lời kêu than cho thời đại:
... người nằm co như loài thú khi mùa Đông về
người nằm yên, không kêu than buốt xương da mình
từng tiếng người, nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm...
người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi
người ngồi đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài
nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay...
Khánh Ly hát như thế, và nàng đánh một dấu ấn vào cái chặng đường khốn khổ của lịch sử mà Trịnh Công Sơn mím miệng thốt là một thời đáng lẽ phải quên. Nàng , kẻ nòi tình, hiểu và đi chân đất trong những quảng trường cất tiếng hát liêu trai. Đuổi u mê. Bắt nắng muộn. Với trực giác một ngày mai, và với bản năng đàn bà ươm sự sống, nàng đã gặp một kẻ cũng nòi tình, trắng tay trắng lòng, mang thơ vào mong dỗ yên những tai ương máu lửa. Cơ duyên cho hai kẻ nòi tình gặp nhau không to hơn một hạt bụi trong ngân hà. Nhưng hạt bụi đã có. Và một khi chiến tranh còn trên trái đất quá quắt này, tiếng hát cho hòa bình và cho phận người nhỏ nhoi cần cưu mang vẫn cứ vang vọng thiết tha. Phải chăng đó là phép lạ? Và là nguyên nhân khiến hai cái tên TCS-KL kết thành một chuỗi liên từ không tách ra được.
*
Tôi đã nói về lần đầu không gặp Khánh Ly, nhưng lại hội ngộ trong tâm tưởng, bên bờ sông Seine với Sơn, một Khánh Ly tôi chỉ thoáng thấy từ xa ngày ở Paris.
Lần thứ hai, tôi gặp Khánh Ly
bằng da bằng thịt, trên gác quán ăn La Famille Vietnamienne ở khu Duluth, thành
phố Montréal. Đầu năm 1992, Sơn qua thăm các em một thời gian sau khi mạ Sơn
mất. Theo lời kể của Vĩnh Trinh, cô em út chàng trân quí, Sơn bị sốc. Hình ảnh
mạ Sơn đứng rình nơi cửa sổ nhìn ra vườn treo hay nhìn xuống phòng ăn vì lo Sơn
uống quá nhiều lại hiện ra. Bà xưa dặn dò tôi : “con đừng để Sơn quá chén, hại
gan lắm!”. Còn Sơn, chàng yêu mạ lạ lùng, kể lể “bài nào mới moa cũng hát lần
đầu cho mạ moa nghe, mạ bảo được thì moa mới phổ biến”. Ngày chôn mạ, Sơn gào
khóc níu quan tài, không cho mang đi. Tôi nghe thuật lại, sợ chàng quị mất.
Nhưng khi biết Sơn qua Montréal, tôi yên tâm. Lái xe từ Québec cách
Sơn vẫn gầy gò nhưng nhìn khí sắc
có chiều tươi tỉnh. Chúng tôi có những ngày tương đối yên tĩnh. Không như ở
Một sáng thứ bẩy, tôi lò dò leo thẳng lên nơi Sơn ở. Từ trong phòng, Sơn lênh khênh đi tới, mặt sáng rỡ, nói “ Edith Piaff của moa tới chơi” . Cửa phòng mở, và Khánh Ly bước ra. Mở ngoặc, Edith Piaff là một danh ca người Pháp nổi vào những năm 50-60, người đã lancer những chansonnier tài danh như C. Aznavour, C. Leveillé... Chỉ nhìn Sơn, tôi biết bạn mình đang hạnh phúc. Và nghe Khánh Ly chuyện trò với Sơn, tôi hiểu họ là hai người bạn ở cái nghĩa đẹp nhất. Sơn trìu mến nàng với tấm tình một người anh trai. Và Khánh Ly viết ngày Sơn lìa xa cõi này rằng “ từ ông tôi thành danh và quan trọng hơn cả là tôi được thành nhân.... ông Trịnh Công Sơn là một nửa đời sống của tôi'’, thì, đối với nàng Trịnh Công Sơn còn hơn một người anh, và chỉ có thể như một người cha.
Buổi tối, chàng lãng tử Phạm Nhuận mời. Trong một tiệm ăn ở phố Tàu, chúng tôi quây quần, có anh em Hoàng xuân Sơn, Hoàng xuân Giang, cũng bạn Khánh Ly từ thời quán Văn ở Sài Gòn. Khi chỉ còn chúng tôi là những thực khách cuối cùng, Khánh Ly và hai anh em Sơn và Giang leo lên cái bục gỗ nơi thường dành cho những cặp mới cưới hỏi. Ôm ghi-ta, họ hát. Như những ngày xưa. Thời của tuổi trẻ hồn nhiên. Thời của một thời chẳng thể quên. Sau này, Hoàng Xuân Sơn kể, Khánh Ly đến chơi với anh em Quán Văn lắm khi ở qua đêm, rất bụi, có gì ăn nấy, không điệu bộ kiểu con gái. Khánh Ly từng viết: “... một dĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly cà phê cùng uống. Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhàu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh em nẩy mầm từ đó. Quán Văn cái tên dễ nhớ và dễ thương...Mỗi người tới tùy tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi-măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Đó là nơi gặp gỡ đẹp nhất của một thời tôi còn trẻ...” (Tạp chí Văn Nghệ, số 1 -2000)
Đấy, Khánh Ly như vậy đó. Và tôi hiểu thêm một nguyên nhân khiến TCS-KL là một từ kép gắn bó. Cả hai thật trong và sáng. Họ cùng một chất nòi tình. Nên cơ duyên nhỏ như hạt bụi trong ngân hà đẩy họ vào một trường hấp lực khiến họ keo sơn với nhau chẳng qua cũng chỉ là chuyện xưa như Diễm.
*
Thời gian sau đó Sơn, Khánh Ly và Vĩnh Trinh hát, thu băng nhằm ra một loạt CD. Ở xa, và vốn ít thích nhộn nhịp, nhớ bạn tôi chỉ điện thoại hỏi thăm. Đầu tháng 4, Sơn nói, giọng rầu rầu “Khánh Ly về rồi, lên chơi với moa đi! ”
Chúng tôi thả bộ dọc
Gần đỉnh đồi, chúng tôi băng
ngang khuôn viên không một vết chân trên tuyết chưa tan. Đi qua một bức tượng
đồng, Sơn đứng lại đọc tên rồi hỏi : “Ai vậy? “ Tôi đáp, tên một thi sĩ. Anh
nhắc kỷ niệm ngày anh đến thăm tôi ở Québec. Bữa tôi dẫn anh vào thăm Đại học
1 Tôi nhận rằng tôi đã sống
2 Tôi cũng vậy, tôi nhận.
Chúng tôi lại đi. Sơn thình lình ngừng bước, giọng ngùi ngùi: “Chỗ này là nơi Mai chụp hình với moa mùa tuyết qua. Hình tính làm bao bì cho CD...”. Rồi Sơn ngập ngừng: “Viết cho moa về Mai và những thành phố không cần anh hùng !” Tôi hồi tưởng thời anh cũng từng nói tôi viết hộ vài dòng cho Michiko, một người con gái đất Phù Tang đã tha thiết yêu anh. Chữ nghĩa Sơn thừa, cớ gì phải nhờ viết hộ nhỉ? Chiều bạn, tôi gửi anh:
Ngày Mai đến
Chăng tơ cho nhện
nhả thơ vào đời
Vết chân anh trên thành phố-không-cần-có-anh hùng
Kén vàng ươm nắng cuối đông
cánh bướm mượt mà gió đợi
Góc công viên tuyết nõn nà trắng tới mênh mông
Anh lại cất tiếnghát
để đêm giật lùi vào nơi không ai đặt tên
vì ngày mai
ngày Mai lại đến
Tiếng hát của Núi
đưa nắng Mai lên
xua đi những bóng đêm thừa thãi
Những bóng đêm không có bóng con Người.
Mai là Khánh Ly, và Núi là Sơn. Thành phố-không-cần-có-anh hùng thì tôi vừa nhắc đến rồi. Năm 1998 tôi về Sài Gòn, Sơn kể anh viết và đăng báo (Tuổi Trẻ?) một bài về chuyến đi Canada, có một đoạn về cái thành phố không cần có anh hùng đó. Cười buồn, anh tiếp, thế là bị Tuyên Huấn TP HCM đánh tơi bời hoa lá.
Ngày tôi hỏi nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo thuở sinh thời cái tên phố nơi anh ở là Huỳnh Văn Bánh thì anh có biết ông Bánh này làm chi không? Anh cười tinh quái, đáp chắc lại là một anh hùng hay liệt sĩ, loại này ở đây đông lắm, nào là Lê văn Sĩ, Nguyễn thị Bé...Ai biết được họ làm gì, chỉ chắc một điều là họ đã hy sinh, thế thôi...
Đất nước ta mà.
Đầy bóng ma của những người chết hai lần, ba lần mà chưa siêu thoát. Đầy tên đường, những tên vô âm hưởng. Và tiếng xe. Và bụi bặm một thời chưa hẳn qua. Một thời đáng lẽ phải quên, nhưng vẫn chưa được!
9-2011