- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Nguyễn Hữu Đang, Ông Là Ai?

14 Tháng Mười Một 200812:00 SA(Xem: 20318)

w-hl94final3-64_0_214x300_1Những năm gần đây và nhất là sau khi ông mất, nhiều sự kiện về cuộc đời Nguyễn Hữu Đang đã sáng tỏ hơn, một số tư liệu về con người ông đã được phơi bày ra ánh sáng và do đó chúng ta đã có thể tạm dựng một tiểu sử đầy đủ hơn về nhà văn hoá cách mạng lão thành.

Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội.

Theo bản «Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang» do chính ông viết tay (tài liệu của diendan.org), thì năm mười sáu tuổi (1929), Nguyễn Hữu Đang tham gia Học sinh Hội (tổ chức thuộc Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội rồi Đông dương Cộng sản đảng). Là tổ trưởng và đối tượng kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, bị bắt bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, khai rút tuổi: sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà.

Từ 1932 đến 1936 theo học trường sư phạm Hà Nội.

1937-1939: tham gia Mặt trận dân chủ Đông dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).

Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội truyền bá quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh.

1943: Gia nhập đảng Cộng sản Đông dương, bắt đầu liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được chính thức kết nạp.

1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc, tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu năm 1944 bị Pháp bắt ở Hà nội và bị giam một tháng tại Nam Định. Được ra, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc. Tham gia Chính phủ lâm thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng (Bộ truyên truyền). Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập 2/9/1945.

Từ tháng 10/45 đến tháng 12/46 giữ các chức vụ: Thứ trưởng bộ thanh niên. Chủ tịch uỷ ban vận động mặt trận văn hóa. Tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội. Tháng 12/46 đến tháng 3/48: Làm trưởng ban tuyên truyền xung phong trung ương.

Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông dương.

4/48-4/49, phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Mặt trận Liên Việt.

7/49-10/54: làm trưởng ban thanh tra Nha bình dân học vụ.

11/54-4/58: Tổ chức và biên tập báo Văn Nghệ.

Cuối năm 56 đầu 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.

Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay đã dẫn ở trên. Về hoạt động Nhân văn - Giai phẩm, ông còn chua thêm hàng chữ: «Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức».

Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt. Ngày 21/1/1960, bị ra tòa cùng với Thụy An, Phan Tại, bị kết án 15 năm tù vì tội «phá hoại chính trị». Bị đưa lên giam ở Hà Giang. Năm 1973, được trả về theo diện «Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris.» và bị quản chế ở Thái Bình. 1989, được «phục hồi» cùng với các bạn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. 1990, được trả lương hưu và từ 1993, được về sống ở Cầu Giấy, Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.

*

Bài viết này gửi đến những bạn trẻ muốn đặt câu hỏi: Nguyễn Hữu Đang, ông là ai?

Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay mà chúng tôi vừa trình bày ở trên. Bởi những gì được ghi nhận một cách chính thức, trên thực tế, chưa hẳn là đã diễn ra như vậy.

Ví dụ: Quãng đời 6 năm, từ 1948 đến 1954, về mặt chính thức thì ông giữ chức Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ (từ 7/1949 đến 10/1954). Nhưng trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, không có dòng nào về Nguyễn Hữu Đang trong suốt thời kỳ 1948-1954 này. Tại sao? Chúng ta thể tìm thấy lý do qua lời Nguyễn Huy Tưởng, lời Hoàng Cầm và qua bài buộc tội và mạ lỵ của Hồng Vân tựa đề «Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang» đăng trên báo Văn Nghệ số 12 tháng 5/58, in lại trong cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận, nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959. Bài của Hồng Vân có nhiều chi tiết đặc biệt về Nguyễn Hữu Đang mà chỉ những người có quyền mới biết được. Một mặt khác, nhìn lại địa vị và uy tín của Nguyễn Hữu Đang trong chính trị cũng như văn nghệ, Hồng Vân (mây hồng có gì gần gũi với sóng hồng chăng?) hẳn là ẩn danh của một người tầm cỡ như Trường Chinh, Xuân Thủy... mới có đủ «thẩm quyền» để viết bài «đánh» Nguyễn Hữu Đang, như người ta đã giao cho Nguyễn Công Hoan đánh Phan Khôi, Phạm Huy Thông đánh Trần Đức Thảo, Hoài Thanh đánh Trương Tửu, Xuân Diệu đánh Lê Đạt... vậy.

Nhà hoạt động văn hóa và cách mạng Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 50 năm (từ 1957 đến 2007, khi ông mất).

Cuộc đời ông nhiều điểm vẫn còn trong vùng tối, bởi sau khi chấm dứt thời kỳ quản thúc ở Thái Bình, tuy được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, ông vẫn bị «chăm sóc» kỹ càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, nhưng riêng ông, ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác.

Lần duy nhất chúng tôi tiếp xúc với ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà nội, cuối tháng 8 năm 1995, là nhờ sự giúp đỡ của nhà thơ Lê Đạt, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2/9/1945, để phỏng vấn ông, qua điện thoại của Lê Đạt, về ngày lễ này do ông tổ chức, rồi nhân đó hỏi thêm ông về chuyện Nhân văn. Buổi thu thanh duy nhất đó được phát làm hai lần trên RFI trong tháng 9/1995 (có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr). Phần ông trả lời về Nhân văn Giai phẩm, chúng tôi đã ghi lại và in trên Hợp Lưu 81, tháng 2-3/2005, số đặc biệt về phong trào Nhân văn Giai phẩm. Hợp Lưu số này in toàn bộ cả hai phần, để độc giả có một cái nhìn toàn diện hơn về con người văn hoá và chính trị Nguyễn Hữu Đang.

Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành. Lần cuối cùng tôi về Hà Nội vào mùa thu năm 1997, ông đến thăm 2 lần, nhưng lần nào cũng do ông V.T, người của bộ nội vụ, chở ông đi. Ông V.T nay cũng đã mất. Câu chuyện, vì có sự hiện diện người của bộ nội vụ, nên đã không nói được gì; những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp mặt cũng không hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên trong bóng tối. Nhưng lần ấy, ông dặn: «Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số chương trình văn hóa văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi.» Như để gián tiếp trấn an người thứ ba.

Khi trở về Paris, tôi đã cố gắng điện thoại cho ông nhiều lần để «thực hiện chương trình», nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là điện thoại lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như đã dự định, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần phẫn uất quá, ông đã quát lên trong điện thoại: «Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hóa văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng...» Lời ông chưa dứt, tiếng điện thoại đã lại u u... Câu nói dở dang ấy đã gây chấn động trong tôi trong nhiều năm tháng. Và suốt thời gian còn lại, tôi không bao giờ điện thoại cho ông nữa, một phần vì không muốn ông bị phiền phức thêm trong cuộc đời quá nhiều thử thách, đớn đau; nhưng còn một lý do nữa là sau này ông bị nặng tai, càng ngày càng nghe không rõ, những người đến thăm ông thường phải bút đàm.

Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được «biệt đãi» hơn các bạn, biệt đãi đến phút cuối. Bởi ông được coi là «đầu sỏi». Đám tang Văn Cao, rồi Phùng Quán, Trần Dần đều đã được cử hành tương đối trọng thể (dù chỉ để che mắt thế gian). Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện đã khác.

Tang lễ Nguyễn Hữu Đang cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một «sai lầm».

Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin cho nên đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm, để ghi âm những lời tiễn bạn của hai nhà thơ qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội. Riêng Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, ông chỉ nằm không còn đi lại được nữa, nhưng ông đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang. Nhà thơ nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị ông tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và hôm sau nữa, không thể liên lạc được với ông vì đường giây điện thoại Hoàng Cầm-Paris đã bị chặn. Như vậy, tiếng nói của những thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, cho đến hôm nay, vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt trong những phát biểu về Nguyễn Hữu Đang và những gì liên quan đến phong trào Nhân văn Giai phẩm.

Bút hiệu: Nguyễn Hữu Đang có nhiều bút hiệu khác nhau và hiện nay chưa biết rõ ông đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong cuộc đời tranh đấu cách mạng và trong thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, vì vậy, việc tìm lại những bài viết của ông không dễ dàng. Một ví dụ: ngay bài «Người thuyền trưởng» ông viết về Nguyễn Văn Tố, cũng dưới hai bút hiệu khác nhau: phần đầu Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, sau mới thu thập lại làm một dưới tên Nguyễn Hữu Đang. (Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền bá quốc ngữ (1938-1988), đăng trong tập kỷ yếu của Hội, do nhà xuất bản Bộ giáo dục ấn hành, sau này đăng lại trên Diễn Đàn số 78, tháng 10/1998, và diendan.org).

Trong thời kỳ làm báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang, ngoài bài «Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân văn số 5, ký tên thật, và bài trên Nhân văn số 6 (không ra được), còn có những bài nào khác, ông ký những tên gì?

Mạnh Phú Tư trong bài đả kích Nguyễn Hữu Đang, viết: «Hắn lẩn mình và rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang».

Ba người có thể cho biết rõ về việc này là hai nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, và họa sĩ Trần Duy. Trần Duy là thư ký toà soạn báo Nhân văn, nhưng đã từ lâu ông im lặng.

Hoạt động Truyền bá quốc ngữ: Về phong cách hoạt động của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 16/6/1942: «Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy».

Trong bài Người thuyền trưởng, Nguyễn Hữu Đang viết:» Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội truyền bá quốc ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Cậu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc.»

Như chúng ta đã biết Hội truyền bá quốc ngữ xuất thân từ Hội Trí Tri. Cụ Nguyễn Văn Tố, nhà nghiên cứu sử học và hán học tại trường Viễn Đông Bác Cổ là Hội trưởng Hội Trí Tri, kiêm Hội trưởng Hội truyền bá quốc ngữ. Trong số những thành viên xây dựng Hội có các nhà trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài học thuộc lòng: i tờ có móc cả hai....

Lời chứng trên đây của Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số vấn đề mà đến nay vẫn thường được người ta làm mập mờ đi:

- Lúc đầu, Hội được chính quyền thuộc địa chính thức công nhận.

- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập hội như một vài tài liệu đã ghi. Trong bài này, ông cho biết lúc ấy ông đang dạy học ở nông thôn, hè về Hà nội, tình cờ gặp Đào Duy Kỳ ở ngoài phố, Đào Duy Kỳ khuyên ông nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt để nhận việc dạy học giúp Hội.

- Việt Minh, mặc dầu có những người tham dự Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng không có vai trò lãnh đạo và khai sinh ra Hội Truyền bá quốc ngữ, như khẩu hiệu: «Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch Truyền bá quốc ngữ». Trong những tài liệu chính thức của nhà nước, người ta không nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội Truyền bá quốc ngữ, vì ông không theo cộng sản.

Vẫn theo bài viết của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta được biết từ 1938 đến 1945, trong «Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ». Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền (1945), chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ để thay thế Hội truyền bá quốc ngữ. Từ đó vai trò thuyền trưởng của Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.

Trước 1954: Về tài trí của Nguyễn Hữu Đang, ngày 30/7/1942, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký: «Nghe Đang nói chuyện, tự thẹn. Anh đã biểu lộ ngay từ bé một tính cách đặc biệt, hùng hổ và ngang tàng. Không sợ, khinh quyền thế, biến báo giỏi, biết thân phận mình, tin ở tài mình, đó là những tính cách của một người giỏi».

1945 là năm Nguyễn Hữu Đang hoạt động mạnh, về mặt chính trị, ông được chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập ở Ba Đình; về mặt văn hóa, ông chủ trương tạp chí Tiên Phong cùng Đặng Thai Mai viết bài Định nghiã hai chữ văn hóa (in trên Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/1945). Tư thế chính trị và văn hóa của Nguyễn Hữu Đang từ 1945 đến 1947 đã lên tới tột điểm.

Vị trí này được Nguyễn Huy Tưởng xác định trong nhật ký ngày 15/11/1947: «Chuyện Tham Ý. Phục các cán bộ Việt minh (...) Phục Đang. Hỏi thầm một người: Có phải là cánh tay phải của cụ Hồ không? Băn khoăn không biết bây giờ Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy, thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả uỷ ban kháng chiến».

Qua bài Định nghiã hai chữ văn hóa, chúng ta biết được những nhận thức của Nguyễn Hữu Đang về văn hóa, biết được mối tương giao của ông với những nhà văn hóa đương thời như Nguyễn Đức Quỳnh (nhóm Hàn thuyên), Đào Duy Anh. Chính sự giao thiệp rộng của ông với các nhà trí thức trong nhóm Hàn Thuyên đã gây khó khăn cho ông.

Qua lời buộc tội của Hồng Vân trong bài «Tên quân sư quạt mo: Nguyễn hữu Đang», chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ năm 1929, 16 tuổi, ông đã được coi là «đối tượng kết nạp» mà mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được kết nạp vào đảng, cũng như việc ông xa rời đảng khoảng một năm sau khi được kết nạp:

«Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương «cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ- rốt-kít.»

«Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc.»

«Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao. Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ.»

«Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền (...) không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm Thanh tra Bình dân học vụ.»

«Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm «quân sư» cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng.»

Năm 1947 ông được kết nạp vào đảng, và theo Nguyễn Huy Tưởng, thì năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.

Vậy Nguyễn Hữu Đang đã lặng lẽ bỏ đảng từ năm nào?

Theo Hồng Vân, Nguyễn Hữu Đang bỏ hoạt động từ khi cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Như vậy, cần xem lại: Cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc năm nào? Nhưng có lẽ đây chỉ là cái cớ mà Nguyễn Hữu Đang đưa ra để ngừng hoạt động.

Hoàng Cầm có một lý do sâu xa hơn: «Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến (...) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. (...) Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức (...) Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là hình như trong hội nghị văn hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa» (Xem bài phỏng vấn Hoàng Cầm trong phần Tưởng niệm Nguyễn Hữu Đang).

Nhưng theo bản tường trình của Xuân Diệu về Hội nghị văn nghệ toàn quốc, thì Nguyễn Hữu Đang không đi dự hội nghị này. Như vậy, mối bất đồng giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang đã xẩy ra trước hội nghị cho nên Nguyễn Hữu Đang mới không đi dự.

Vẫn theo lời Hoàng Cầm, sau khi hòa bình lập lại, Trường Chinh bàn với Tố Hữu rằng anh Đang đã lâu lắm anh ấy không làm gì, vậy nên mời anh ấy ra hoạt động lại. Điều này phù hợp với việc Nguyễn Huy Tưởng mời Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ, như lời chứng của Lê Đạt và như Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký.

Tóm lại thời kỳ 1948-1954, trái với những gì ghi trong tiểu sử chính thức: Trong 6 năm, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với chính quyền cách mạng.

Và khi trở lại, thì ông bắt đầu bằng việc tổ chức lớp học tập 18 ngày, trong đó ông đã đọc một bài tham luận nảy lửa chỉ trích những sai lầm của đảng và của lãnh đạo văn nghệ. Theo Hoàng Cầm, tinh thần văn nghệ sĩ nêu những thắc mắc, cũng phát sinh từ lớp học này. Và cũng chính vì tinh thần chỉ trích của Nguyễn Hữu Đang đã khiến Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký những hàng sau đây:

«Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn (nhật ký ngày 21/4/55)». «Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh (24/4/1955)». «Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: (đã) in Gốc đa, Gặp Bác, v.v.. (23/6/1955)». «Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang (21/8/56)».

Những bực mình và dằn vặt này của Nguyễn Huy Tưởng về tình hình chung và về Nguyễn Hữu Đang càng làm sáng tỏ tấm lòng và nhân cách của Nguyễn Huy Tưởng trong việc bênh vực Nhân văn sau này.

Hoạt động Nhân Văn: Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư: «Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười!». ( xem bài Mạnh Phú Tư).

Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định: «Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn».

Sau đây chúng tôi đúc kết những lời Lê Đạt nói về tờ Nhân văn và vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong báo Nhân văn, trên HL số 81:

«Tháng 5 năm 1956, bắt đầu ở Trung Quốc có phong trào Trăm Hoa Đua Nở thì ở Việt Nam cũng bắt đầu có cuộc học tập văn nghệ về vấn đề dân chủ. Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Đang. Và tôi phải nói về anh Đang như thế này: Anh Đang là người hoạt động lâu năm ở trong Đảng, nhưng đã từ lâu - hình như có cái gì không bằng lòng mà trong danh từ của chúng tôi người ta thường gọi là «bất mãn» - anh không hoạt động nữa. Lúc bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng có đón anh ấy ra để làm báo Văn Nghệ, cùng với tôi. Trong buổi học tập Văn Nghệ đó, anh Đang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Đang có nói một câu với Nguyễn Đình Thi -Nguyễn Đình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Đang nói rằng: «Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm». Đó là lời nói của Đang như thế. Trong tất cả các anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ có tôi là biết Đang thôi, nhưng do việc họp văn nghệ như thế thì Đang cũng dần dần biết anh em chúng tôi nhiều hơn, tiếp xúc với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân nhiều hơn, nhưng Đang cũng chỉ thân với tôi thôi. Thế còn Trần Dần, Văn Cao, và các anh em... cũng không thân gì với Đang lắm.

Đang nói với tôi: «Thế nào cũng phải ra báo và ra báo thì chắc là tụi mày phải làm thôi.» Vì tình hình Trung Quốc họ làm như thế, cho nên ở Việt Nam cũng có cởi mở hơn về vấn đề dân chủ, tháng 9 năm 1956, cho tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân. Như thế bước đầu, có thể gọi là một thắng lợi. Và trong tình hình sôi sục như thế Đang có đề nghị ra một tờ báo, tờ báo này chính là tờ Nhân Văn.

Đến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn lắm. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ (...) Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao Nhân Văn cho anh Cầm. Tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Đang (...) Việc quản trị tờ Nhân Văn là do anh Đang lo. Anh Đang trước đã hoạt động trong giới văn hóa nội thành, cho nên anh ấy quen rất nhiều những người làm văn hóa và những cơ sở in ấn ở nội thành.

Về số 1 Nhân Văn, nguồn gốc cái tên Nhân Văn, bây giờ kể lại, có hơi phức tạp, vì tôi không hiểu là ai nói đúng. Tôi nghĩ rằng các anh ấy cũng chẳng nói dối đâu, nhưng chắc là trí nhớ của các anh không phục vụ các anh một cách trung thành: Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Đang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào. Còn mọi việc cứ để các anh tĩnh trí nghĩ lại (...) Sáng kiến này là của Đang - Đang bảo: «Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Đang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay».

Tất cả những trích dẫn trên đây đã cho ta thấy rõ hơn chân dung của Nguyễn Hữu Đang. Một mặt khác, qua những bài viết của ông, mà chúng tôi tạm thời thu thập được, độc giả sẽ thấy nhiều khía cạnh khác nhau trong con người ông: một nhà văn hóa qua bài Định nghiã hai chữ Văn hóa (viết chung với Đặng Thai Mai). Tinh thần tranh luận khoa học và lịch lãm trong bài Văn Hóa tức là. Óc phân tích phê bình trong bài Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm. Tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ trong bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Tài tổ chức, sự thẳng thắn, khúc chiết, tài hùng biện, trong bài trả lời phỏng vấn.

Về con người và uy tín của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta sẽ tìm thấy trong các mảnh chân dung mà hai nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm nói về ông, đặc biệt những dòng trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, một người bạn thân đối lập về chính trị. Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi là ba nhân vật có chức quyền trong ban lãnh đạo văn nghệ thời đó. Nhưng thái độ của Nguyễn Huy Tưởng đối với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Nhân văn Giai phẩm khác hẳn thái độ của Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi. Nhà văn Nguyễn Huy Thắng (con trai Nguyễn Huy Tưởng) đã thu thập những điều Nguyễn Huy Tưởng viết về Nguyễn Hữu Đang trong nhật ký, và qua bài sưu tập này, chúng ta lại càng thấy rõ những gì ông lưu lại trong nhật ký, vừa vẽ nên chân dung Nguyễn Hữu Đang, vừa vẽ chân dung Nguyễn Huy Tưởng như một nhà văn hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, trong ban lãnh đạo văn nghệ, không những đã giữ được nhân cách của mình, mà còn viết thư phản đối Trường Chinh, bảo vệ Nhân văn Giai phẩm, trong một thời mà con người, dù tài năng đến đâu, cũng khó tránh khỏi việc bán rẻ lương tâm, sống mất mình trong phong trào bồi bút. Một số bài mạ lỵ Nguyễn Hữu Đang cũng được đăng lại ở đây, để một mặt chúng ta thấy rõ mối lo sợ của nhà cầm quyền trước sức mạnh của phong trào, và một mặt khác, cái không khí bồi bút thấp hèn mà những người trong Nhân văn Giai phẩm đã phải chịu đựng trong nhiều thập kỷ.

Thụy Khuê
Paris tháng 3/ 2007

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Tám 201910:10 CH(Xem: 16582)
Khi cuộc đấu tranh giành quyền con người đang xảy ra tại Hồng Kông, khi những tinh hoa của phong trào dân chủ ở xứ sở này đang làm cả thế giới ngưỡng phục, khi hầu hết người VN cũng đang hướng về cuộc đấu trí ngoạn mục của người dân Hồng Kông với tất cả lòng ngưỡng mộ, tôi muốn nhắc với chúng ta về một người con gái của đất nước mình. Ngày hôm nay, ở Trà Vinh có một mái nhà nho nhỏ đang ấm lên vì được đón cô trở về.
16 Tháng Bảy 201911:23 CH(Xem: 18457)
Lần đầu được đọc tập ký hoàn chỉnh của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, một tác giả người Việt hải ngoại, tự nhiên trong đầu tôi nảy ra sự so sánh với hàng ngàn vạn bài ký “mậu dịch” của hơn tám trăm tờ báo dưới sự chăn dắt của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hóa ra, đó toàn là những sản phẩm đồng phục được chế tác bởi những tác giả, qua sự đào luyện của hệ thống trường ốc, trong đó, cá tính đã được mài nhẵn, tư tưởng được kiểm soát chặt chẽ, mọi phản biện xã hội đều bị giới hạn trong phạm vi cho phép, vì thế, cái gọi là ký ấy chỉ là những văn bản véo von ca ngợi, tự sướng của những cây bút thủ dâm chính trị, tự huyễn hoặc mình. Loại báo chí ấy chẳng những không có lợi, mà trái lại, rất có hại, bởi nó thực chất là dối trá, lừa phỉnh nhân quần.
12 Tháng Sáu 20196:05 CH(Xem: 19611)
Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802-1804), trong Thanh Hiên thi tập.(1) Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất, và kỳ lạ bậc nhất của Tố Như, khi ông chưa tới tuổi “tam thập nhi lập.” Hay và kỳ lạ, song xưa nay nó mới chỉ được điểm qua, chưa hề được phân tích bình giải một cách thấu đáo. (Trong khi, bài Độc Tiểu Thanh ký xếp liền sau đó lại được khai thác khá kỹ trong hàng chục bài viết - ở các bậc phổ thông, đại học và nhiều diễn đàn văn chương). Có lẽ, bởi tính chất kỳ lạ và trừu tượng đến khó hiểu của nó?
15 Tháng Năm 20195:35 CH(Xem: 23304)
Trên vạn dặm Trung Hoa, trong số những di tích lịch sử tôi có dịp được tham quan, có lẽ đền thờ Nhạc Phi nằm ở chân núi Thê Hà cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang là di tích để lại cho tôi nhiều ấn tượng khó quên hơn cả. Đặc điểm nổi bật nhất trong kiến trúc của khu đền là giữa không gian rộng rãi, có khu mộ Nhạc Phi cùng con trai Nhạc Vân, đối diện là bốn bức tượng sắt quỳ nhốt trong cũi sắt, đã tạo nên nét đặc sắc chưa từng thấy trong các di tích lịch sử ở Trung Quốc cũng như trên thế giới… Hơn hai trăm năm trước, đại thi hào Nguyễn Du đã tới nơi này, để lại 5 bài thơ chữ Hán vịnh sử bất hủ về Nhạc Phi và những kẻ thủ ác hãm hại người anh hùng của đất nước Trung Hoa cổ đại.
14 Tháng Năm 20199:20 CH(Xem: 20272)
Bài thơ: “Cúng Dường” của thiền sư, thi sĩ Tuệ Sĩ đã được nhiều giảng sư, luận sư, triết gia chuyển dịch, tất cả đều dịch rất sát, rất hay, nhưng trên ý nghĩa của mặt chữ, đã khiến dư luận cảm thương, tội nghiệp khi đọc thi phẩm này, mà theo tôi, sự giải thích sát nghĩa như vậy đã ngược lại hoàn toàn tính hùng vĩ và đại bi tâm của nhân cách tác giả và thi phẩm.
13 Tháng Năm 20198:54 CH(Xem: 18752)
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình trung nông lớp dưới. Bố Huy Cận đậu tam trường làm hương sư ở Thanh Hoá, sau về quê dạy chữ Hán và làm ruộng. Mẹ Huy Cận là cô gái dệt lụa làng Hạ nổi tiếng ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ.
24 Tháng Tư 201911:02 CH(Xem: 19725)
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Trong cuốn sách của mình với tựa đề "và Sài Gòn sụp đổ" (Et Saigon tomba - Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện 'quan trọng nhất' với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris: Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là "một người minh mẫn và nắm vững tình hình". Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
17 Tháng Tư 20197:44 CH(Xem: 19349)
Tám bài thơ viết về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên mà chúng tôi đã/ sẽ khảo sát đều được đại thi hào Nguyễn Du viết khi chu du trên sóng nước Tiêu Tương, vùng Hồ Nam - nơi nổi tiếng với “Tiêu Tương bát cảnh” từng thu hút cảm hứng vô hạn của bao thế hệ văn nhân, nghệ sĩ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…
08 Tháng Tư 20199:47 CH(Xem: 18289)
Khoảng thời gian ba thế kỉ XVII-XVIII-XIX là thời thịnh của thể loại truyện nôm. Các nhà văn thời này đều có chấp bút và đã lưu lại nhiều tác phẩm văn chương lôi cuốn nhiều thế hệ người đọc. Truyện Phan Trần là một truyện nôm ra đời trong thời kì này, cụ thể là khoảng cuối thế kỉ XVIII, trễ lắm là đầu thế kỉ XIX.
02 Tháng Tư 201910:27 CH(Xem: 20804)
Cũng như hai bài thơ Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu đã khảo sát ở phần I, trong các bài thơ còn lại về chủ đề này, Nguyễn Du vẫn say mê trò chuyện, luận bàn, thậm chí tranh cãi với Hồn oan nước Sở từ hơn hai ngàn năm, như hồn đang hiển hiện quanh quất bên mình, trên dòng sông lịch sử tựa một nấm mồ lớn đang vùi lấp thân xác của một con người tri âm tri kỷ đặc biệt đối với ông.