- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Đôi Lời Minh Xác: Trước Hiện Tượng Mọi Rợ Văn Hóa [ Cultural Barbarism]

29 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 29661)

Mọi Rợ văn hóa [cultural barbarism]. Thoạt nghe có vẻ lạ tai, nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy thấm thía. Đọc cổ thư Trung Hoa, thường thấy những người tự xưng là “người Hoa hạ” rất tự hào về tập tục đội mũ, mặc áo, dinh thự nguy nga, ăn uống tiếp khách ngồi bàn, ngồi ghế, có chữ viết, sách vở. Chung quanh Hoa hạ toàn là bọn man, di, nhung, địch, hướng về triều đình Hán tộc để nghênh đón ân đức. Khổng Khâu–một thời được xưng tụng như vạn thế sư biểu–cũng từng thận trọng phân loại man di tứ phương, và “phán” rằng bọn mọi rợ ở phương Nam lúc nằm ngủ, chân đầu lộn ngược. Dù trên thực tế, Khổng Khâu chẳng hiểu biết gì về phong tục, tập quán, hay thứ ngôn ngữ “líu lo như chim” của các dân tộc phương Nam. Và, dĩ nhiên, cũng chưa từng đặt chân đến những xứ mà có thời gian, bốn năm thế kỷ sau ngày Khổng Khâu chết, vua quan Hán vẫn tin rằng người ta làm nhà cửa hướng về phương Bắc để đón ánh mặt trời! Sách Lễ Ký huyễn truyền về tám tộc Nam Man khắc chữ tên trán, cẳng chân giao nhau. Văn gia Hán sau này còn có thói quen thêm những bộ trùng, bộ khuyển trong việc đặt tên nước, tên dân lân bang.
Những dân tộc bị Khổng Khâu hay trí thức Hán đặt tên là “Nam Man” hay “Tây Nam Man Di” hẳn chẳng vui vẻ gì, nếu không phải phẫn nộ trước thái độ có thể gọi là “mọi rợ văn hóa” kiểu Hán tộc này. Nhưng thực ra, sự mọi rợ văn hóa không chỉ dành độc quyền cho Khổng Khâu cùng Hán tộc. Chính những người phương Nam của Trung Hoa đôi lúc cũng có những hành động mọi rợ văn hóa không kém. Sự mọi rợ này bộc lộ rõ ràng nhất qua hành vi “đào mộ” (chửi rủa) hay “cung văn” (nịnh hót trong những cơn lên đồng) nhan nhản trong lịch sử mà ta có thể tạm gọi là những loài sâu bọ của bông hoa lịch sử.
Một số sử quan Việt, chẳng hạn, từng mượn những quốc sử để ca ngợi người có quyền uy, tiền bạc hầu kiếm chút đỉnh chung, hay miệt thị, nguyền rủa những người thua cuộc là “ngụy” hay “yêu đảng.” Nhưng đáng ghê tởm hơn nữa là hiện tượng “ziết sử” một thời thịnh hành ở hải ngoại cũng như quốc nội trong thế kỷ XX và XXI.
Có nhiều loại người “ziết sử,” với trình độ học vấn, xuất thân khác nhau. Nổi danh nhất là Đặng Thái Mai, Tôn Thất Thiện, Lữ Giang, Trần Chung Ngọc, Lê Trọng Văn, v.. v . . Trường phái này thường sử dụng thủ thuật cả vú lấp miệng em, tảng lờ mọi sự thực lịch sử, ngụy tạo tư liệu, hoặc trộm cắp công trình tim óc của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp–rồi xào nấu, nhắm mắt lại mà cung văn hoặc đào mộ trên báo chí hay những cuốn “sách” của họ. Đặng Thái Mai, chẳng hạn, từng bịa đặt ra việc Phó Bảng Nguyễn Sinh [Sanh] Huy yêu nước, không chịu làm quan cho Pháp–trong khi thực tế Phó Bảng Huy làm việc đắc lực cho “Tây” đến độ Nguyễn Sinh Côn được đặc cách nhận vào trường Quốc Học Huế năm 1908, và ít lâu sau bản thân Huy được cử làm tri huyện Bình Khê–một huyện dữ dằn nhất tỉnh Bình Định trong cuộc nổi dạy năm 1908 của nông dân, cần được “vỗ yên” sau “loạn cúp tóc” hay “loạn đồng bào.” Sau đó, Huy bị cách chức, tống giam từ ngày 19/5/1910, rồi phiêu lưu vô định ở miền Nam, khiến Nguyễn Sinh Côn phải bỏ học, rồi trốn xuống tàu ra hải ngoại, làm đủ thứ nghề. Xin nhập học đường tắt trường Ecole Coloniale, nhưng bị từ chối, “Paul Thành”–một bí danh mới của Nguyễn Sinh Côn–từng viết thư cho viên chức thuộc địa Pháp nhờ chuyển tiền giúp đỡ Phó bảng Huy, và xin cho cha được phục hồi chức tước, nhưng Khâm sứ Pháp không tìm ra tông tích Phó Bảng Huy. Nguyễn Sinh Côn còn yêu cầu anh trai là Nguyễn Sinh Khiêm viết thư “van nài” Sarraut “đại nhân” can thiệp cho Côn (Tất Thành) được nhập học trường Thuộc Địa Paris, vì trường này đòi hỏi học viên phải được chính phủ Liên Bang Đông Dương gửi đi. Tóm lại, hai lá đơn xin nhập học trường Thuộc Địa ngày 15/9/1911 không phải là nỗ lực cuối cùng xin phục vụ Pháp của Nguyễn Sinh Côn (Tất Thành). Không hề có việc cha Nguyễn Sinh Côn không chịu làm quan cho Pháp; và, HCM đã lên đường ra hải ngoại chưa hẳn đã vì muốn tìm đường cứu nước như những nhà cung văn của chế độ khua chiêng, gõ trống bên cạnh những lời xưng tụng muôn năm vang dội các hội trường.
Trần Chung Ngọc–cựu giảng nghiệm viên phòng thực tập Vật Lý tại Đại học Wisconsin-Madison–nhắm mắt chửi rủa công giáo, tin lành, ca ngợi hay bênh vực chế độ cộng sản–dù chẳng biết gì nhiều về hai tôn giáo lớn Tây phương, hay phong trào Cộng Sản. Cóp nhặt từ tác giả này vài câu, tác giả khác ít câu in vào “sách” mình, làm như học nhiều, hiểu rộng–nhưng chưa hẳn đọc mà đã hiểu các tác giả hay những điều trích dẫn đó. Chẳng thấy Trần Chung Ngọc công bố một tài liệu nào do mình phát hiện–nên lập luận chỉ là một thứ nhai lại của người khác, kèn kẹt tiếng nghiến răng khoái trá, man rợ. Khi được đọc lần đầu tiên trong đời về kế hoạch “chỉnh quân,” “chỉnh huấn” theo kiểu Mao-ít qua sự dạy bảo của các cố vấn Trung Cộng dưới quyền Luo Guibo [La Quí Ba] và Wei Guoqing [Vi Quốc Thanh] trong thập niên 1950, kiến thức “kinh điển” của Trần Chung Ngọc chỉ cho phép nhà ziết sử giẫy nẩy lên rằng đó là vu cáo bộ đội Cụ Hồ, vì bộ đội cụ Hồ vô cùng oai hùng, tại sao bỗng dưng lại bắt phải chỉnh quân, chỉnh huấn. Lối “ziết sử” trên của Trần Chung Ngọc khiến những cán bộ tuyên giáo CSVN có lẽ cũng phải đỏ mặt vì sự cung văn lố bịch, dựa trên sự ngu dốt hào nhoáng và điêu ngoa sặc sỡ. Đó là chưa kể những người như Khuất Duy Tiến hay Đặng Vũ Hiệp, cựu Tư lệnh B-3, cùng hàng chục ngàn nạn nhân khác của kế hoạch Mao hóa quân đội CSVN, dưới sự chỉ đạo của cán bộ Trung Cộng. Khi có người chỉ cho Trần Chung Ngọc biết chỉnh huấn, chỉnh quân ở đây có nghĩa học tập tư tưởng quân sự Mao Nhuận Chi “vĩ đại,” Trần Chung Ngọc mới ngẩn người ra, xin lỗi, tự biện hộ mình không chuyên biệt về sử. Nhưng chỉ nhận lỗi cho có, trên mặt các báo và mạng điện tử hải ngoại, Trần Chung Ngọc lúc nào cũng hùng hồn ziết sử (Trần Chung Ngọc rất sính dụng từ ngữ này).
Một “nhà ziết sử” lừng lẫy khác, thường bút chiến với Trần Chung Ngọc, là Lữ Giang. Lữ Giang tìm đủ cách đào mộ các lãnh tụ Phật Giáo, cung văn họ Ngô, thấy ai đưa ra những tư liệu bất lợi cho họ Ngô là chửi rủa bằng những ngôn ngữ hạ cấp. Nhưng kiến thức thực sự của Lữ Giang ra sao? Trong cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử, nhà ziết sử Lữ Giang phán rằng: Thân phụ cụ Phan Bội Châu đã phải sửa tên “San” của cụ thành Châu, vì sợ “phạm húy” vua Duy Tân (Vĩnh San) vài ba năm trước ngày vua Duy Tân chào đời! Khi ăn cắp tư liệu của tôi về lá thư riêng của Khâm sứ Pháp gửi cho Toàn quyền Đông Dương, Lữ Giang mọc ra rằng đó là một “văn thư,” lại còn trích dẫn số ký hiệu văn khố cẩn thận. Đó là chưa nói đến những tư liệu chưa giải mật mang danh hiệu SPCE tại Aix-en Provence mà chỉ những người nghiên cứu chuyên nghiệp mới được tham khảo nếu được phép của Bộ Văn Hóa Pháp. Thái độ thiếu lương thiện trí thức của Lữ Giang còn bộc lộ qua việc trộm cắp tư liệu của nhiều tác giả khác, nhưng quên trưng dẫn, và còn ghi chú nguồn tài liệu rõ ràng mà những tác giả nạn nhân tham khảo, ra vẻ ta đây cũng từng “nghiên cứu.” Khi bị vạch mặt nạ, Lữ Giang đưa ra một thứ lý luận cuối cùng của trò mọi rợ văn hóa: vu cáo tôi xuyên tạc lịch sử vì đưa ra những sử liệu văn khố mà không ai có thể phủ nhận hay phản bác sự khả tín. Tiếp đó là cái mũ “chống Ki-tô giáo.” Tôi vẫn nghĩ Lữ Giang, hay những người–như một người từng quen biết ở San Jose, chẳng có chút vốn liếng sử học nào, vu cáo tôi là “bài Ki-tô” hay chống Ngô Đình Diệm, trên loại lưới nhện Talawas (mà tôi từng nói rõ vô cùng khinh bỉ)–chẳng thuyết phục được ai, ngoại trừ những người muốn được thuyết phục. Y hệt lập luận tôi “chống Cộng khét tiếng” hay muốn làm giảm gia trị Hồ khi công bố tư liệu văn khố mới về HCM. Nhưng tôi vẫn nghĩ Lữ Giang chỉ là một trường hợp cá biệt, không thể đại diện cho tập thể trí thức Ki-tô.
Còn Lê Trọng Văn–từng kiêu hãnh tự nhận là nhặng báo cho Ngô Đình Nhu để tăng giá trị “bí ẩn lịch sử” về họ Ngô–HAI LẦN ăn cắp tư liệu của tôi in vào “sách” [thư Ngô Đình Thục gửi Toàn Quyền Decoux năm 1944, và thư Petrus Key gửi Trung tá Jauréguiberry vào tháng 3/1859]. Lê Trọng Văn còn cho rằng tôi không biết lịch sử Việt Nam khi gọi sông Cửu Long (hạ nguồn Lan Thương Giang trong lãnh thổ Lào) là sông Khung, hay Liên Bang Thái Tự Trị (ZANO) gồm mười sáu (16) châu mà không phải mười hai (12) châu như huyền thoại Thái–hai ý niệm và thực thể chính trị hoàn toàn khác biệt nhau mà những nhặng báo như Lê Trọng Văn khó đủ học vấn để tường tận. Giống như Trần Chung Ngọc và Lữ Giang, chẳng phải tôi sai, mà các đương sự chưa từng được nghe hay biết đến những chi tiết lịch sử tầm thường trên.
Thực ra, với tôi, những côn đồ và mọi rợ văn hóa không đủ khiến quan tâm. Sau lần bị kích tim đầu năm 2008, kế cận cõi chết, tôi nhận hiểu không còn nhiều thì giờ, cần tập trung vào việc kết thúc những nghiên cứu của mình. Tôi cũng phá lệ thường, cho phổ biến trên tạp chí Hợp Lưu những nghiên cứu mới nhất, hy vọng xan xẻ kiến thức sử học với học giả và độc giả thân quí bốn phương. Cuối năm 2008, do đề nghị của văn hữu Nguyễn Vĩnh Châu, tôi còn chấp thuận cho ông Trần Quốc Bảo phỏng vấn để “làm film” về HCM, với điều kiện duy nhất là phải tôn trọng sự thực lịch sử. Bạn quí của tôi, như nhà văn Trùng Dương và Ngô Thế Vinh, có thể chứng thực điều trên. Việc nhóm ông Bảo không thực hiện đúng lời hứa–sản xuất cuốn DVD “sự thực về HCM” nhưng còn chứa đựng nhiều chi tiết sai lầm, những lời chứng mà mức khả tín rất đáng hoài nghi–không vượt ra ngoài sự lo ngại của tôi. Bởi thế, tôi đã dành cho Nguyễn Vĩnh Châu một bài phỏng vấn quanh những đề tài về HCM để có dịp phổ biến khi thuận tiện.
Cuốn DVD vừa phát hành, tôi được website Cộng Sản Việt Nam xếp hạng là chống Cộng khét tiếng, và hàm ý không đưa ra điều gì mới. Thực ra, cần minh xác, tôi chống bất cứ hình thức độc tài nào, bất kể màu sắc ý thức hệ. Đây không phải lần đầu tiên tôi nói đến sự vi phạm Hiến Chương LHQ và Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1948. Trong “Seminar Paper” năm 1999 đòi hỏi của trường Luật Houston trước ngày tốt nghiệp–với tựa “The Human Rights Aspect of the United States-Vietnam Relations, 1975-1995”–đã phản ảnh hết tâm ý của tôi nói chung, và nhận định về Việt Nam, nói riêng. Điều khó ngỡ là mới đây, chuyên viên ziết sử Trần Chung Ngọc bỗng nhập cuộc, chẳng hiểu do tự nguyện hay nhận lệnh từ đâu, hung hăng đả kích DVD “Sự Thực về HCM.” Giở trò giả mù sa mưa, Trần Chung Ngọc trích tác giả này, tác giả nọ để bảo vệ luận cứ mình. Trong số những người được dẫn chứng có Duiker và Quinn-Judge, hai tác giả cũng xuất hiện trong DVD của nhóm Linh mục Lễ. Nhưng chẳng thấy Trần Chung Ngọc đưa ra được bằng chứng có giá trị nào để phản bác, ngoài những lời “tinh tinh” vu vơ. Mặc dù được chính phủ VNCH gửi qua Mỹ du học nhờ học bổng Mỹ và thành tích cựu sĩ quan, kiếm được mảnh bằng về Vật Lý, nhưng Trần Chung Ngọc không nắm được nguyên tắc cơ bản của đối thoại và lý luận. Đó là muốn bài bác một nhận định sử học của những người nghiên cứu chuyên nghiệp, phải xuất trình được những tư liệu khác với những dữ kiện do người Trần Chung Ngọc muốn phê phán đưa ra. Đáng lẽ Trần Chung Ngọc phải biết theo thí dụ cụ thể sau: Để chứng minh Quinn-Judge không phải là một học giả nghiêm túc hay có giá trị về HCM, mà Trần Chung Ngọc ca ngợi hết lời, đánh giá mỗi nhận xét như chừng mang sức nặng thánh kinh, một sinh viên năm thứ nhất Sử học thôi cũng đủ cho Trần Chung Ngọc thấy hai trong hàng chục nhược điểm của Quinn-Judge trong tập tiểu thuyết lịch sử về HCM: Thứ nhất, trong bài “Thỉnh nguyện của dân An-na-mít” trên báo L’Humanité ngày 18/6/1919, không hề có tên Nguyễn Ái Quốc như Quinn-Judge hoang tưởng. (Xem Chính Đạo, HCM con người và huyền thoại, tập I, 1997). Thứ hai, mặc dù mật thám Pháp báo cáo rõ ràng người phụ nữ vượt biên qua Vân Nam năm 1939 không phải là “Fan Lan” Nguyễn Thị Vịnh, nhưng Quinn-Judge vẫn cho rằng Minh Khai có thể đã âm thầm đi tìm Linov Côn. Quinn-Judge cũng chẳng biết gì nhiều về Nguyễn Sinh Côn hay bối cảnh xã hội VN trong hai thập niên đầu của thế kỷ XX–liệu có xứng đáng chăng để diễn dịch về tâm trạng HCM? (Tôi vẫn nghĩ Trần Chung Ngọc chưa đọc kỹ Quinn-Judge, hoặc đọc mà không hiểu, không phát hiện nổi sai lầm và dụng tâm của người cựu nữ ký giả này)
Cách nào đi nữa, trung thành với tinh thần mọi rợ văn hóa, Trần Chung Ngọc nhảy ngay đến kết luận là tôi “cường điệu” khi đưa ra nhận xét rằng HCM là người chỉ có tham tâm giành đoạt quyền lực và duy trì độc quyền cai trị. Hy vọng quí thân hữu và độc giả đọc những điều tôi phát biểu về HCM, do Nguyễn Vĩnh Châu ghi lại, và cho tôi biết ý kiến.
Một cách tổng quát, tất cả những kẻ “Ziết sử” đều san sẻ một đặc tính chung. Đó là chẳng biết gì về sử, chỉ dùng trí tưởng tượng của mình để uốn cong những mảnh vụn sử liệu lịch sử theo mục đích “cung văn,” hay “đào mộ” giai đoạn. Lập luận của Trần Chung Ngọc hay Lữ Giang khiến người ta không thể không nhớ đến một câu bất hủ của Socrate: “Điều tội lỗi nhất là cứ tưởng mình biết điều mình thực sự chẳng biết gì cả.” Nhưng những kẻ ziết sử hình như bất chấp dư luận, miễn hồ đạt được mục tiêu của mình. Như cầu xin một bữa ăn nhậu, hay một chút đỉnh chung, ân sủng cuối đời của nhà cầm quyền; và, không đủ kiến thức hoặc sự tỉnh táo để nhìn lại những cái gương tầy liếp đầy phẫn hận, cùng máu và nước mắt của thành viên hai tổ chức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, hay Liên Minh Dân Chủ, Hòa Bình năm 1968–hai dụng cụ thôn tính miền Nam của Lê Duẩn-Lê Đức Thọ–nhưng đã bị vứt ra hải ngoại hay chìm vào bóng tối các đô thị sau khi người CS đã đạt mục tiêu.
Đáng lẽ tôi giữ thái độ im lặng, tập trung vào việc hoàn tất các nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, Trần Chung Ngọc đã mượn trang website Sách Hiếm có liên hệ với ông bà Nguyễn Mạnh Quang để phô trương đặc tính hung hãn mọi rợ văn hóa khi đả kích cuốn DVD “Sự Thực về HCM,” đào mộ và cung văn theo cảm tính hoặc lệnh trên, bất chấp sự thực, lương tâm và công tâm của con người thôi, nói chi người từng tốt nghiệp một đại học Mỹ. Chẳng hiểu Trần Chung Ngọc đã được hưởng những phần thưởng gì để đả phá những người chống Cộng miền Nam không chút kiêng dè. Nhưng những người thuê mướn Trần Chung Ngọc quên một điều: Bầy ziết sử và tinh tinh tân thời không thể tô son, thiếp vàng lại cho HCM hay chế độ được nữa. Hành động viết thư cho Chu Ân Lai nhìn nhận biên giới biển có những dấu chấm và gạch đứt quãng là bằng chứng hùng hồn nhất về tham vọng giành đoạt quyền lực với mọi giá của HCM cùng Đảng CSVN. Cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ là những tấm gương soi gáy HCM và Đảng CSVN đến ngàn đời. Lúc ấy thi hài những HCM, Phạm Văn Đồng, Nông Đức Mạnh có thể đã tan thành tro bụi, nhưng sẽ bị các cháu học sinh từ lớp đồng ấu trở lên hài tội cắt đất cho Hán tộc để cầu quyền lực, danh vọng. Chắc là dòng giõi, con cháu “lãnh tụ” chẳng hãnh diện gì và sẽ gánh chịu đủ búa rìu dư luận.
Phần những người như Lữ Giang hay Trần Chung Ngọc, Đặng Thai Mai? Chỉ có sự im lặng, và một cái nhún vai rẻ rúng, cho những kẻ vì chút lợi nhuận nhất thời mà tẩy xóa cho sạch lương tâm và niềm kiêu hãnh của một con người. Họ sẽ chìm vào lãng quên, chẳng còn dấu tích nào về một thời gian hiện hữu như những ngụy trí thức và mọi rợ văn hóa.

Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
Houston, 29/8/2009

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 2280)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 2256)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
13 Tháng Hai 202411:57 CH(Xem: 1403)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.
07 Tháng Hai 20243:34 SA(Xem: 1509)
Khi tìm đọc văn học chiến tranh (giai đoạn 1954-1975) tôi bắt gặp rất nhiều lần lời giới thiệu ngắn tên tuổi, và các tác phẩm của nhà văn Nguyên Vũ. Kể từ đó, tôi luôn tìm Nguyên Vũ để đọc, song dường như không có tác phẩm nào của ông được đưa lên các trạng mạng, hay các thư viện điện tử. Hôm rồi, thật may mắn, đang nghiền ngẫm về cố nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tình cờ tôi bắt gặp: Mây Trên Đỉnh Núi, truyện dài gồm 20 chương của Nguyên Vũ. Đây có lẽ là truyện dài đầu tay, và ít được nhắc đến của ông. Cũng định thử một vài trang, rồi lúc nào đó sẽ đọc tiếp, nhưng bập vào tôi không thể dứt ra được, và đọc một mạch ngay nơi làm việc. Sự hấp dẫn, sinh động ấy, không hẳn bởi chỉ nội dung, mà còn do bố cục, nghệ thuật đan xen những tình tiết câu chuyện...
25 Tháng Mười Hai 202310:41 CH(Xem: 2194)
Hàng năm vào dịp cuối năm, người Kitô hữu đón mừng sự kiện Chúa Giêsu giáng trần, mặc lấy thân xác con người để chuộc tội nhân loại, tội tổ tông đã lưu truyền từ Adam - thuỷ tổ loài người theo dân Do Thái - lúc còn ở địa đàng đã ăn phải trái cấm của Thiên Chúa do Eve dụ dỗ.
22 Tháng Mười Hai 202312:10 CH(Xem: 3126)
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối, Tìm Quê hương trên vết máu giữa đồng hoang: Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi, Từng con sông từng huyết lệ lan tràn…
07 Tháng Mười Một 20236:34 SA(Xem: 3812)
“…câu chuyện giáo sĩ Alexandre de Rhodes là câu chuyện cũ đã hơn 300 năm trước. Ông không sáng chế ra chuyện đánh vần tiếng Việt ra mẫu tự Bồ. Tôi nghĩ ông là một giáo sĩ tận tụy với nghiệp vụ truyền giáo, chỉ có điều kiến thức quá giới hạn của ông về văn hóa tôn giáo và con người Việt Nam làm tôi bực mình, và thèm khát một ngày mà những bất cập như vậy không còn sót lại nơi một giáo sĩ dù với đức tin nào. Tuy nhiên, phê phán nặng nề một giáo sĩ 300 năm trước là điều không nên, khi mà các giáo sĩ nói chung bấy giờ một phần vì giới hạn kiến thức, không có truyền thống kính trọng văn hóa địa phương. Nhưng ta tự nguyện tự lãnh một cái ơn tày đình với những giáo sĩ như De Rhodes cũng là chuyện không căn cứ. Có lẽ thỉnh thỏang ta nên đọc lại Phép Giảng Tám Ngày của ông ta để có một viễn cận phải chăng với câu chuyện.” (Mai Kim Ngọc).
01 Tháng Mười Một 202312:55 SA(Xem: 3892)
Hun Sen đã chính thức chuyển quyền cho con từ ngày 22/8/2023. Tuy Hun Manet là Thủ tướng mới nhưng Hun Sen vẫn có một ảnh hưởng gần như tuyệt đối từ phía sau hậu trường. Hun Sen viết trên trang Facebook – “Đây chưa phải là kết thúc. Tôi còn tiếp tục phục vụ ở những cương vị khác ít nhất cũng tới năm 2033” (tức là mười năm nữa, lúc đó Hun Sen 81 tuổi). Tìm hiểu về giới lãnh đạo bao gồm hai thế hệ Cha và Con của chính trường Cam Bốt hiện nay và ít ra trong 10 năm tới thiết nghĩ là điều rất cần thiết.
16 Tháng Mười 20234:16 CH(Xem: 3917)
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng.(1) [trích Thông Báo của Cambodia gửi Ủy Ban Thư Ký Sông Mekong]
07 Tháng Mười 202311:06 CH(Xem: 4251)
...Mai Ninh, Trần Vũ, Lê thị Thấm Vân vẫn viết về những vấn đề liên quan đến cuộc chiến đã qua. Trần Diệu Hằng với Vũ điệu của loài công, Mưa đất lạ và Chôm chôm yêu dấu vẫn là những tập truyện ngắn liên quan cuộc sống người tỵ nạn, đến tâm tình từ góc độ một người tỵ nạn. Lê thị Huệ với Bụi Hồng, Kỷ niệm với Mỵ Anh và Rồng rắn vẫn là những soi chiếu vào tâm tình những cảnh đời của nếp sống di dân qua hình ảnh cô sinh viên thuở trước và bây giờ. Nhưng người ta vẫn nhận ra đề tài về tính dục vẫn là nét trổi bật trong các truyện của các nhà văn kể trên (trừ Trần Diệu Hằng). Thứ văn chương với đề tài có xu hướng trổi bật về tính dục đã mở đầu như một thứ cách mạng tình dục trong tiểu thuyết. Trước đây thì cũng có Tuý Hồng, Lệ Hằng, Thụy Vũ... cũng đậm mà chưa đặc, chưa đủ mặn. Ai là người đánh trống, cầm cờ về đề tài này? Có thể là Trần Vũ, Trân Sa hay Kiệt Tấn, Ngô Nguyên Dũng, Hồ Trường An và nhất là Lê thị Thấm Vân. Truyện sẽ không viết, sẽ không đọc, nếu không có trai gái.