- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“LE LÓI HY VỌNG” VỀ NHÂN VẬT THỜI ĐẠI

10 Tháng Mười 202111:31 CH(Xem: 9880)

nvtd 3
      

“LE LÓI HY VỌNG” VỀ NHÂN VẬT THỜI ĐẠI    

Mai An Nguyễn Anh Tuấn    

 

Sau khi đưa một cảm ngôn về bức tranh của họa sĩ Lê Sa Long & ý kiến của nhà văn Trần Thùy Linh như một lời kêu gọi các nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ hôm nay: “DỰNG TƯỢNG ĐÀI NÀY ĐI: CUỘC “THIÊN DI” CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ VÀ BÀ MẸ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ…”, nhằm góp phần miêu tả “nhân vật chính của Thời Đại, biểu tượng cho cả một dân tộc vượt lên cảnh ngộ bi kịch tìm lối thoát cho quyền sống của mình”, rất nhiều người đã ủng hộ. Nhưng cũng có không ít người lồng lên phản đối như bị “chạm nọc”, thậm chí chửi bới rất tục tĩu (xin lỗi không viết ra vì xấu hổ thay cho họ). Để trả lời họ, với tư cách là một người làm phim, tôi xin có vài suy ngẫm về NHÂN VẬT THỜI ĐẠI giúp họ tham khảo.

 

Mấy hôm trước, giữa những ngày đại dịch tang thương, tình cờ tôi giở ra đọc lại “Tuyển tập Hoài Thanh, tập II” (Nxb Văn học, HN, 1982), và gặp ngay trang có những dòng sau:

 

“Trở về Thủ đô mới trên một năm là có người đã viết trong Giai phẩm mùa xuân:

Những con người của chúng ta

Đang lờ mờ xuất hiện

Le lói hy vọng…

Những con người nào vậy? Chắc chắn không phải là những con người như Lê Văn Thọ, Phan Đình Giót, Ngô Gia Khảm, Nguyễn Thị Chiên […] Không, những con người của Giai phẩm mùa xuân đúng là cái đám người cũ bị dồn vào một góc và đang ngoi đầu dậy. Những con người hư hỏng ấy trong bao lâu bị chính nghĩa dồn ép, nay có hoàn cảnh ngoi đầu dậy là chúng liền phá vỡ nước sơn CM mong manh. Chúng nó quật dậy với ý định trả thù, táo tợn hung hăng lại càng cho mình là dũng cảm”.

 

Tiếp sau đó, tác giả đã dùng “chùy thép” ngôn từ giáng không thương tiếc xuống tư cách, nhân thân của những người theo ông là “bọn phản nghịch”, là quân “mưu mô làm chính trị phản động”, bọn mang “nọc độc”, lũ “chuột dịch” “định kiếm chác một món to”… (tr.323, 324). Ở một bài khác, ông đã khẳng định như tòa án kết tội hùng hồn: “Bọn cầm đầu Nhân văn là một bọn phản cách mạng!” (tr.281).

 

Ở đây tôi xin miễn bàn luận về những lời phán xét nghiêm khắc đầy quyền uy và “sắt máu” kia (tác giả viết vào những năm 1958 – 1960, sau này tập hợp in sách vào năm 1982), vì đã có rất nhiều bài viết nghiêm túc vạch ra sự thật, “chiêu tuyết” và trả lại công bằng cho những người bị gọi là Nhân văn, và cho cả phong trào Nhân văn Giai phẩm - tiêu biểu là các bài của nguyên Đại tá an ninh Thái Kế Toại (tức nhà văn Lê Hoài Nguyên - Xin xem trên: https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13581). Ta có thể mượn lời của ông khi viết về nhạc sĩ Tử Phác để nói về  hầu hết các văn nghệ sĩ từng bị chụp mũ “Nhân Văn Giai Phẩm” thời ấy: “Trong tiến trình dân chủ hóa của đất nước, tên tuổi của nhạc sĩ Tử Phác không phai mờ cùng Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm”. (http://vanviet.info/van/tu-phc-mot-so-phan-bi-tham/).

 

Tôi chỉ xin dừng lại ở mấy câu thơ trên:

 

Những con người của chúng ta/ Đang lờ mờ xuất hiện/ Le lói hy vọng…

 

Dự cảm của một nhà thơ NVGP hồi ấy, ngờ đâu đã mang một nội dung hiện thực sâu sắc, và đã được chứng thực bằng sự thật đời sống suốt mấy chục năm qua, đặc biệt là trong những ngày đại dịch này!

 

Người viết những dòng này, hồi thi vào Điện ảnh được ban Giám khảo (gồm các nhà điện ảnh nổi tiếng và các GS-TS. Nghệ thuật học - Điện ảnh học) hỏi một câu: “Theo anh, nhân vật chính của văn học nghệ thuật thời đại ta là gì?” Với sự háo hức của người sắp bước vào nghề nghiệp mới mẻ hằng ao ước, hắn trả lời: “Thưa, nhân vật thời đại, theo một học giả Bungari, đó là người có trí tuệ của một nhà bác học, có trái tim của một chiến sĩ, và tâm hồn của một nhà thơ!” Cả ban Giám khảo ngẩn ra giây lát, nhìn nhau, chắc tự hỏi không hiểu kẻ “trái khoáy” này từ đâu ra, cớ sao không thèm nhắc tới Nhân vật Công - Nông - Binh mà tất cả các giáo trình Đại học văn chương, nghệ thuật lúc đó coi là Thần tượng, là hạt nhân tri thức mỹ học XHCN?

 

nvtd 1

Áp phich tiêu biểu của Trung Quốc một thời


Vâng, một thời kỳ dài, rất dài, “nhân vật anh hùng thời đại” (không phải theo kiểu của I. M. Lermontov) được hiểu là nhân vật thuộc tầng lớp Công - Nông - Binh - cốt lõi là “Tư tưởng văn nghệ ở Diên An” của Mao, được bao bọc, trang điểm bằng các lý thuyết văn học & mỹ học của Mác - Ăng-ghen - Lê Nin, M. Gorki, Timofeev, Jăng Phơ-rê-vin, Iu.B. Bô-rép, v.v. Công - Nông - Binh mang khát vọng & tư thế: “Mỗi con người lấp lánh một ngôi sao” như nhà thơ lớn Tố Hữu định nghĩa và đòi hỏi, dù có cơ sở thực tế nhất định, song điều tai hại là đã mang trong nó mầm mống của sự kiêu ngạo, bất chấp quy luật khách quan Lịch sử, bất chấp nền tảng của Nhân văn, và nhất là nó sẽ đẻ ra tư tưởng thống trị Nhân dân khi sự phân liệt giàu nghèo ngày một rõ rệt của một xã hội tiêu thụ thắng thế!

 

Khi một viên chức cấp cao thuộc tầng lớp “quý tộc mới” đương sống giữa biệt thự và các tiện nghi hiện đại cao giọng lên án một lão nông Đảng viên nghèo bị gạt sang hàng ngũ thù địch, là “ác bá cường hào”, có thể hiểu rằng ông ta không giả dối đóng kịch chút nào, mà rất chân thực chân thành. Bởi trong máu ông ta, từ lúc còn là học trò, đã nhiễm tư tưởng “Ngôi Sao”, tức là cái đặc quyền đặc lợi đương nhiên được hưởng đối với gia đình mình, với giai tầng của mình; do đã có công lớn trong Sự nghiệp đấu tranh giải phóng Dân tộc và Giai cấp nên tự cho cái quyền được ban ơn hay trừng trị, quyền sai khiến luật pháp!

 

nvtd 3
Biểu tượng của xưởng Mosfilm trong hàng thập kỷ


Nhân vật xả thân hy sinh cho Tổ quốc - Đồng bào giờ chỉ còn là hình ảnh trong các phim “cúng cụ” đắt tiền được trình chiếu trong các Đại lễ kỷ niệm, làm thứ trang trí sang trọng cho Chính thể. Còn ngoài đời, dành cho thanh thiếu niên hiện nay dường chỉ là các nhân vật thành đạt xài ô tô BMW, LEXUS, có lâu đài đồ đạc dát vàng mà một số quan chức đã phô phang hãnh diện và giới truyền thông quảng bá cổ vũ… Cạnh đó, sự yếu kém, thất bại của ngành Giáo dục đang bị thương mại hóa cộng với cái quy định không văn bản gần như được pháp chế hóa: “Tất cả để cho Đảng và Nhà nước lo” đã làm tê liệt dần tinh thần sáng tạo, ý thức phản biện trong thanh thiếu niên, và đang tạo ra một tâm thế xã hội: “Quyền lực ở phía này, sự sợ hãi ở phía kia, luôn luôn là những cột trụ trên đó uy quyền phi lý được xây dựng” (Power on the one side, fear on the other, are always the buttresses on which irrational authority is built), như nhà tâm lý học người Đức Erich Fromm từng nói.

 

Những con người của chúng ta

Đang lờ mờ xuất hiện

Le lói hy vọng…

 

Vậy, “Những con người của chúng ta” đó hiện giờ là ai, và đang ở đâu? Sự “lờ mờ xuất hiện” của nó từ hơn nửa thế kỷ trước làm cả xã hội “le lói hy vọng”, phải chăng là những con người mang phẩm chất mà Phan Tây Hồ tiên sinh đã mong mỏi, với phương châm "tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, nhằm Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh? Đó là những phẩm chất, mà vì ủng hộ chúng, người viết mấy dòng này suýt bị “trượt vỏ chuối”, nhưng giờ đây lại thấy có ý nghĩa hơn bao giờ hết trong việc xây dựng Con Người mới, hình thành Nhân vật Thời đại: “Nhân vật thời đại, đó là người có trí tuệ của một nhà bác học, có trái tim của một chiến sĩ, và tâm hồn của một nhà thơ.” Người mẹ ôm con trong cuộc “thiên di” lịch sử kia, người mang bao nỗi đau tinh thần và thể chất để vượt qua mọi nghịch cảnh thiên tai nhân họa - cũng là một kiểu “anh hùng văn hóa”, đã bảo vệ các Nhà bác học - Người chiến sĩ tương lai đó cho Dân tộc mình…

 

Chỉ xin được bổ sung một điều: Trái tim chiến sĩ và Tâm hồn nhà thơ đó rất cần phải có tình yêu thương Đồng Bào làm điểm tựa, làm gốc rễ cho mọi hành động. Đó cũng là thứ quý giá, cần thiết để các nhà Nhân văn Việt Nam ngày trước đã phải “le lói hy vọng…”

 

Và hôm nay, nhiều người như tôi cũng đang le lói hy vọng, giữa bao thất vọng bầm dập, về sự xuất hiện một kiểu Nhân vật đích thực của thời đại nhằm tiếp tục thực hiện ngày một hiệu quả các sự nghiệp ngổn ngang của Quốc gia, và để trở thành nguyên mẫu cho văn chương - nghệ thuật… Bởi như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã khẳng định trong lời giới thiệu cho tập sách mới nhất của tác giả Lã Nguyên: “Đặc biệt từ sau năm 1986, các nghị quyết của Đảng liên quan đến văn nghệ đều không nhắc đến chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đồng thời khuyến khích tìm tòi phương pháp và phong cách khác nhau” (Nguyễn Duy – nhà thơ hiện đại Việt Nam (Thực hành phân tích diễn ngôn văn học) -http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/nguyen-duy-nh-tho-hien-dai-viet-nam-thuc-hnh-phn-tch-dien-ngn-van-ho%cc%a3c-ky-1/).

Có như vậy, văn chương - nghệ thuật Việt Nam mới đáp ứng được yêu cầu thời đại, mới có thể mang được giá trị nhân văn toàn cầu vượt ra ngoài biên giới.

Mai An Nguyễn Anh Tuấn    

  

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 96076)
Gần đây tôi có dịp đọc một số tài liệu của người trong nước viết về văn học miền Nam 1954-1975. Rải rác đó đây không ít, nhưng gom vào một mối thì có thể kể ra hai nguồn. Thứ nhất là bài phỏng vấn khá thú vị của chị Thụy Khuê, đài RFI bên Pháp, với nhà phê bình Vương Trí Nhàn, hiện sống tại Hànội, xung quanh đề tài văn học miền Nam từ 1954-1975 (*).
17 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 88152)
Vào những giờ phút cuồng dại vì tâm chúng ta mù quáng thì bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra, kể cả chiến tranh. Cho nên, sự thực hành lòng từ bi và trí tuệ là điều hữu ích cho tất cả, nhất là đối với những người có trách nhiệm điều hành công việc quốc gia, khi mà họ nắm trong tay quyền lực và phương tiện có thể tạo dựng nền hòa bình cho thế giới.
29 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 29698)
Mọi Rợ văn hóa [cultural barbarism]. Thoạt nghe có vẻ lạ tai, nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy thấm thía. Đọc cổ thư Trung Hoa, thường thấy những người tự xưng là “người Hoa hạ” rất tự hào về tập tục đội mũ, mặc áo, dinh thự nguy nga, ăn uống tiếp khách ngồi bàn, ngồi ghế, có chữ viết, sách vở.
16 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 28228)
1945, Võ Phiến gia nhập bộ đội trong một thời gian ngắn, sang 1946 ra Hà Nội học trường Văn Lang; đến tháng 12/1946, trở về Bình Định tham gia kháng chiến, sang năm 1947 về làm thuế quan tại Gò Bồi. Năm 1948, ông kết hôn với cô Võ Thị Viễn Phố (Võ Phiến là Viễn Phố nói lái) và ông dạy học ở trường trung học bình dân Liên Khu V.
15 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 35582)
Khác với Nam Cao, người trí thức của Nguyễn Mộng Giác không rơi vào dằn vặt vì vật chất "cơm áo gạo tiền". Ông ý thức sự quan trọng của vật chất nhưng không bao giờ cho đó là vấn đề lớn đối với trí thức. Sau chiến tranh, ông hiểu khó khăn, thiếu thốn là đương nhiên. Điều ông khắc khoải là bị đứng bên lề cuộc sống.
17 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 159616)
Tìm hiểu về rùa Hoàn Kiếm chúng ta hãy đi ngược trở lại những trang sử Việt Nam , chính sử cũng như huyền sử, và những bài viết thực tế đương thời đã được lưu trữ trong các mạng lưới. Khi đọc những dữ liệu trên, nhiều người sẽ có một cảm tưởng những dữ kiện về rùa không được thống nhất cả về huyền sử lẫn thực tế, và có những vấn đề cần được thảo luận.
05 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 28021)
Thuật ngữ khuôn nhịp, hay cấu trúc nhịp điệu giúp ta nhận diện: sự lặp lại đều đặn theo chu kì của những bước nhịp, các âm thanh mạnh yếu. Các khuôn âm luật ấy góp phần tạo ra tính nhạc cho bài thơ. Mỗi khuôn nhịp có trường độ bước nhịp nhất định. Ở mỗi bước nhịp, số âm tiết hợp thành tiết tấu câu thơ luôn được hạn định.
09 Tháng Sáu 200912:00 SA(Xem: 97256)
K ể từ năm 1975, hàng năm cứ đến mùa giỗ Đệ Nhị VNCH dịp tháng Tư là những kẻ thua cay lại lôi Trịnh công Sơn ra làm quả banh da của võ sinh quyền Anh đấm cho đỡ ngứa tay ngứa miệng...
13 Tháng Tư 200912:00 SA(Xem: 93512)
Năm 1995, Vi Thuỳ Linh đăng in bài thơ đầu tay của mình trên báo Tiền phong . Năm 1999, nhà xuất bản Hội Nhà văn in tập thơ Khát của chị; Nguyễn Trọng Tạo khi viết lời tựa cho tập thơ đó, đã xác quyết mạnh mẽ rằng: Vi Thùy Linh đi vào thơ hiện đại bằng “con ngựa chữ nghĩa dậy thì”.
22 Tháng Ba 200912:00 SA(Xem: 23599)
Độc giả ngày nay có lẽ không mấy người biết Vũ Khắc Khoan là ai. Mặc nhiên ông là một trong những tác gia lớn - tên tuổi có lẽ không nổi tiếng như Võ Phiến, Mai Thảo hay Thanh Tâm Tuyền - đã để lại những tác phẩm độc đáo, đánh dấu những biến chuyển quan trọng về bút pháp và tư tưởng, trong nửa sau thế kỷ XX, của văn học Việt.