- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“MÊ THẢO” CHỐNG LẠI “THỜI VANG BÓNG”

12 Tháng Chín 20218:12 CH(Xem: 9887)
MeThao
Diễn viên Minh Trang (vai Cam) trong phim Mê Thảo-Thời vang Bóng

 

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

“MÊ THẢO” CHỐNG LẠI “THỜI VANG BÓNG”

(Xem phim “Mê thảo - thời vang bóng” của đạo diễn Việt Linh)

 

Một cái tên phim lạ khá hấp dẫn, lại được làm theo truyện của một tác giả văn học đại thụ, được tuyên truyền quảng cáo nhiều từ vài năm nay, lại của một đạo diễn nữ đã từng gặt hái thành công ở một vài liên hoan phim trong nước và quốc tế… Đó là những điều đã dẫn tôi đến rạp mua vé xem bộ phim: “Mê Thảo – Thời vang bóng”.

 

Trong cái không khí có nhiều phim “cúng cụ” ra đời để phục vụ kịp thời những ngày lễ kỷ niệm rồi sau đó vội vã nhét vào kho và những cuộc cãi lộn trên báo chí nổ ra ( để nhằm khẳng định phim mình hay, và cũng là một cách để quảng cáo cho bộ phim đã bị công luận “khai tử”), phải, trong cái bối cảnh đó tôi đi xem “Mê Thảo” với một tâm lý dễ chịu hẳn. Bộ phim được làm chỉn chu, kỹ lưỡng, không có những hạt sạn đáng tiếc khiến khán giả suýt “gãy răng” như không ít phim điện ảnh và truyền hình của ta hay mắc phải. Âm thanh nổi, ánh sáng đẹp, khuôn hình gọt tỉa, bối cảnh phục trang hợp lý, âm nhạc sử dụng đắt, diễn viên có nghề, v.v. Có thể nói đây là một bộ phim truyện nhựa xứng với “đồng tiền bát gạo” bỏ ra.

 

Nhưng, nhiều khán giả (có người đã phát ngôn trên báo chí) - trong đó có tôi, khi xem bộ phim lại không thấy xúc động. Tôi cũng ngạc nhiên và tự hỏi: có phải mình đã chai lỳ cảm xúc? Hay là vì trong khi xem, mình cố tìm xem những chỗ nào trùng khớp hay không trùng khớp với nguyên tác của nhà văn Nguyễn Tuân? Hay là phim làm theo kiểu hiện đại quá, không phù hợp với khả năng thưởng thức của mình?

 

Để có thể tự trả lời được một cách thật khách quan những câu hỏi rắc rối tơ vò trên, tôi đã đọc lại toàn bộ tác phẩm “Chùa Đàn”, rồi mua vé xem lại “Mê Thảo” lần nữa, cùng với đôi ba người bạn ưa tranh cãi.

 

Thế rồi, một câu hỏi mới đã chợt bật ra với tôi: bộ phim được làm ra để làm gì, nhằm tới cái đích gì trong tâm tưởng người xem?

 

Cơ sở nội dung để các nhà làm phim sử dụng cho “Mê Thảo” là chương II, cốt lõi truyện “Chùa Đàn” (Trong “Vang bóng một thời”): “Tâm sự của nước độc” được viết trong năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân lại viết thêm phần I và phần III cho tác phẩm để lý giải thêm, đúng hơn là “chiêu tuyết” về mặt tư tưởng cho nội dung thiên truyện; và việc làm đó đã được một giáo sư chuyên gia hàng đầu về tác giả Nguyễn Tuân nhận xét: “đó là lời lý thuyết ồn ào” (1) Chính nhà văn Nguyễn Tuân trong một bài viết nhìn lại sáng tác của mình trước cách mạng đã khẳng khái tự thừa nhận: “Chùa Đàn nguyên là một truyện thần bí quái dị, rút ở tập “Yêu ngôn” phản khoa học, phản tiến bộ. Chuyện ấy là chuyện một địa chủ điên loạn trong hưởng lạc, muốn sống một cách dâm bạo, như cái kiểu của Musset: “máu, khoái cảm, và chết”… Sáng tác vô chính trị “Chùa Đàn” là một tội lớn đối với Cách mạng Tháng Tám”(2). Nếu bác Nguyễn có sống lại, thì bên cạnh dũng khí của nhân cách lớn đó sẽ có thêm sự kính nể, bác sẽ lại vái dài những người làm phim và Hội đồng duyệt phim Quốc gia vì đã dám phạm vào “vùng cấm” mà cho đến ngay lúc này, cái bệnh “cầm đèn chạy trước ô tô”, “bảo hoàng hơn vua”, “cái gì cũng sợ” còn nặng nề lắm trong tâm lý những người “cầm cân nảy mực” ở cái lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm và đặc biệt quần chúng là Điện ảnh! Ô hay, thế ra cái việc duyệt phim ở ta giờ cũng thoáng thật! Nhưng thôi, ta hãy quay về phim, quay trở về với lòng dũng cảm quyết “liều chiến” của nữ đạo diễn Việt Linh. Và ta thử xem chị đã làm thế nào để biến “nước độc” thành “nước lành”, để chị có thể đem phim đi nước này nước nọ trình chiếu như một thứ “căn cước tài năng và lòng yêu dân tộc” của mình.

 

Tôi nghĩ, việc đầu tiên, tốt hơn cả là hãy bám lấy nhân vật chính – địa chủ ấp Mê Thảo họ Nguyễn. Trong phim, trừ đoạn đầu ở thành phố đi nghe hát và tình cờ chứng kiến một cuộc ngộ sát, ông chủ Nguyễn từ đó cho đến hết phim đã hiện ra như một hình nhân thế mạng cho một ai đó, biểu tượng cho sự khùng điên, man rợ, độc đoán; ở ông ta chất chứa những ẩn ức mà nổi bật là ẩn ức sinh lý không được giải tỏa… Tất cả những điều đó được lý giải bởi một tình huống duy nhất: người vợ yêu sắp cưới bị tai nạn đổ ô tô - bằng chính cái ô tô quà cưới của ông ta dành cho vợ yêu! Từ đó, ông ta căm ghét văn minh cơ khí, nghĩa là tất cả những gì liên quan đến tiện nghi hiện đại. Những hành động của ông ta (buộc mọi người trong ấp phải thiêu hủy đồ dùng sản phẩm công nghiệp, việc đặt lệ: người vào ấp phải bỏ lại tư trang thành thị ngoài trạm gác, v.v), nếu ở trong truyện, chúng được phủ lên bằng một không khí âm u ma quái đượm màu sắc “Liêu trai” - thì ở phim, chúng lại được miêu tả một cách cụ thể đến trần trụi, thậm chí cả việc ông ta “làm tình” thực sự với bức tượng gỗ! (chi tiết này không có trong truyện). Tất cả những cái đó nhằm minh họa cho tính cách (hay tình trạng nhân cách) của ông ta: nửa người nửa ma quái, nửa phần cõi dương nửa phần cõi âm, và chúng hoàn toàn không đủ thuyết phục rằng ông ta có thể lại phục hồi được lương tri nhờ nghe tiếng hát của cô đào Tơ ở cuối phim!

 

Nếu tỉnh táo đọc lại những trang “Chùa Đàn” hôm nay, với cái nhìn độ lượng của thời gian, chúng ta càng dễ nhận ra: ở đằng sau sự sa đọa, lỗi thời, thần bí, điên loạn của một thời đại mà người nghệ sĩ dù có cá tính sáng tạo mạnh đến mấy cũng khó lòng vượt qua được, vẫn có một cái gì đó le lói mang giá trị nhân bản đích thực. Ngay trong văn bản “Tâm sự của nước độc” mà “Mê Thảo” dựa vào cũng còn có nhiều tình tiết uẩn khúc mà người làm phim bỏ qua hay không tiếp cận nổi! Trong phần III của “Chùa Đàn” là “Mưỡu cuối”, Nguyễn Tuân viết: “Lịnh (trong phim là ông chủ ấp họ Nguyễn – người viết chú thích) chỉ đổi đi cái đối tượng mê mải - người Lịnh lúc nào cũng chứa nỗi say đắm một cái gì - và hướng dục vọng mình vào một phía mới nào nó rộng rãi và đúng nghĩa hơn. Lịnh vẫn là một người say đắm cái đẹp…”(3) Dù phần III này chỉ là một sự “vá víu” khiến GS. Nguyễn Đăng Mạnh thốt lên: “Nguyễn Tuân sao mà nông nổi đến vậy!”(4) thì chúng ta vẫn thấy ở đằng sau cái “nông nổi” ấy là một nhân cách nghệ sĩ đáng trọng, không thể và không dám dìm chết nhân vật mình yêu quý trong vũng bùn sa đọa vĩnh viễn!

 

Còn trong phim thì sao? Tôi đã dần hiểu ra những mắc mớ của mình. Phải, như vậy rõ ràng là người xem phim khao khát muốn được tìm thấy ở đằng sau những vẻ điên dại, hành động ngược đời (và trái với cả nhân tính kia) một cái gì đó thổn thức của lương tri, của một trái tim “say cái Đẹp”, nỗi thèm muốn thoát khỏi sự tù túng chật hẹp và những nỗi bất công chẳng nhỏ chút nào do chính anh ta tạo ra cho đồng loại ấp Mê Thảo khiến anh ta từng phải xót xa ân hận… Nhưng không, khán giả không hề tìm thấy một chút bóng dáng nào của những thứ kể trên khiến nhân vật chính có thể có được một vẻ đáng yêu nhất định, một sự cảm thông đượm thế thái nhân tình nơi người xem. Cảm giác bao trùm đối với nhân vật ấy kể từ cuốn phim thứ hai trở đi cho đến hết tám cuốn sau là một sự ghê rợn, kinh sợ. Người xem buộc phải trở lại câu hỏi day dứt: vậy bộ phim được làm ra để làm gì? Cả một bộ phim tốn kém dài hơn trăm phút không lẽ chỉ nhằm đưa ra một lời khuyến cáo đơn giản sau cùng và cũng đầy khiên cưỡng: “mọi sự mê muội đều phải trả giá”? Phải chăng, ngoài những ấn tượng phản thẩm mỹ và phản đạo lý kia ra, bộ phim chỉ cần đạt được sự giới thiệu dân tộc học về Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX: những phụ nữ mặc váy yếm, những điệu hát ca trù, những chiếc đèn giời, sinh hoạt của giới địa chủ, nghề làm tơ tằm, những cuộc biểu diễn nghệ thuật truyền thống… Xem xong phim, nhiều người cũng có tâm trạng như tôi, thấy thiêu thiếu một cái gì… Hóa ra, cái thiếu đó chính là ngọn lửa ở bên trong tác phẩm, là cái thái độ ngay thẳng bênh vực con người, là cái thông điệp về nhân sinh ngầm sâu mà những người làm phim cần gửi đến người xem qua hàng loạt những hỉ, nộ, ái, ố, những cảnh sắc, những trang phục và diễn xuất… Vâng, rất buồn mà buộc phải nói rằng, những cái đó ở bộ phim này rất lộn xộn, mờ nhạt nếu như không muốn nói là chúng không có. Tiếng hát của cô Tơ cùng tiếng đàn “chảy máu năm đầu ngón tay” của quản Tam dù có rung động lòng người dẫn đến cái chết cứu mạng ân nhân của Tam cũng không giúp gì nhiều cho phim khi phim đã không có cái cột trụ vững chắc là một tư tưởng nghệ thuật sâu sắc.

 

Thật công bằng mà xét thì nhân vật cô câm (tên Cam, với nghĩa cam chịu, nhẫn nhịn) là sáng tạo có ý nghĩa hơn cả của bộ phim. Nếu không có nhân vật này, phim sẽ “nghèo” đi nhiều lắm. Cô câm giống như một “con mắt thứ hai” của khán giả cảm nhận, quan sát, đánh giá nhân vật chính là ông chủ Nguyễn- người mà cô yêu một cách say đắm, nhẫn nại và nô lệ, kể cả khi ông ta đã trở nên dại cuồng mất hết nhân tính! Hành động đáng kể nhất, mang tính chất nổi loạn và bộc lộ rõ tình yêu mù quáng của cô câm là hành động kéo lê cái tượng gỗ to bằng người thật quẳng xuống sông (hình như có hàm nghĩa là cô vứt bỏ thần tượng yêu trộm nhớ thầm của mình!) Và cô đã bị trả giá: ông chủ ấp Mê Thảo hạ lệnh bỏ rọ cô trôi sông để thế mạng! Xem ra, cô là nhân vật có nhiều hy vọng mong được gửi gắm của những người làm phim. Có người viết phê bình bộ phim đã ví cô câm này với hình ảnh những cô gái nghèo trong cổ tích yêu hoàng tử, với cô Thoa trong truyện của Thế Lữ, cô Trâm trong truyện của Nhất Linh, cô Xoan trong truyện của Nguyễn Đình Thi… Tác giả đó quả là yêu quý nữ đạo diễn mà quá lời. Xin hãy bình tĩnh để suy xét. Nếu như Nguyễn Tuân mượn tiếng đàn của nhân vật giải tỏa nơi con người “cái tâm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng”(5) bằng chữ nghĩa và sự tưởng tượng nơi người đọc thì trong phim, các tác giả đã làm công việc hiện hình cái “tâm tức sinh lý” ấy một cách trần trụi, nó lại được ánh sáng trau chuốt, ống kính cận cảnh vào đặc tả kèm tiếng động chân thực ( thông qua cái nhìn của cô câm) làm tôn lên nhiều lần cái cảm giác thú vật từ nhân vật hòng lây lan sang khán giả. Nếu có ai dám nói đó là thành công thì nên hiểu rằng đó là một điển hình thành công của một cuộc “thủ dâm” bằng điện ảnh!

 

Còn có thể nói thêm nữa về phim qua những nhân vật khác: cô Tơ, anh quản Tam, ông bõ… Nhưng như vậy cũng đủ để cho tôi tự giải đáp cái băn khoăn của mình: vì sao phim không làm tôi xúc động, ngược lại, còn gây phản cảm? Với một tác giả văn xuôi “phức tạp” như Nguyễn Tuân (chữ dùng của GS. Nguyễn Đăng Mạnh), mà “Chùa Đàn” lại là truyện được chính tác giả xếp vào cùng với những truyện huyền bí, như  “Xác Ngọc Lam”, “Loạn Âm”, “Lửa nến trong tranh”…mà ông đặt tên chung là “Yêu ngôn” phản ánh nỗi hoang mang và kinh loạn của suốt một thời kỳ khủng hoảng; với một tác giả “khó khăn” như vậy, muốn “giải mã” được ông, tinh lọc được những gì là quý giá nhất của tâm hồn, tài hoa của ông để chuyển tải tới đông đảo khán giả bằng phim ảnh thì rõ ràng cần phải có một “thầy ấn” cao tay hơn, có một tầng văn hóa – tư tưởng dày dặn hơn, may ra…

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

 

_____________________________________________

(1)  Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.40, NXB Văn học Hà Nội 1981.

(2) Nguyễn Tuân toàn tập, tập V, tr. 443-444. NXB Văn học Hà Nội, 2000.

(3) Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.407, NXB Văn học, HN, 1996.

(4) Nguyễn Đăng Mạnh ( đã dẫn ở 1 )

(5) Nguyễn Tuân tuyển tập, tập I, trang 398.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
17 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 25952)
Nằm trong lịch sử sân khấu phương Tây với những nghi lễ tôn giáo từ thời Hi Lạp cổ đại, sân khấu Pháp đã có sự phát triển bền bỉ và có nhiều thành tựu theo chiều dài các thế kỉ. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tình hình kịch Pháp về cơ bản là kế thừa kịch nửa sau thế kỉ XIX.
26 Tháng Mười 200912:00 SA(Xem: 26645)
Literary fiction commits a double arbitrariness: that of invention itself and the arbitrariness with which it imitates what is essentially arbitrary: reality. (Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực) Añicos/ Bits (Những mảnh vụn) / Juan Calzadilla
20 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 24227)
Là một trong những nhà văn tài hoa nhất và sáng tác sung mãn nhất của thế hệ ông, văn chương Mai Thảo bao trùm một giai đoạn dài từ kháng chiến chống Pháp đến di tản hải ngoại; ở khoảng nào, ông cũng có những tác phẩm xuất sắc, vẽ nên những chân dung con người với một nội dung siêu hình, một tâm thức lãng mạn, đớn đau.
20 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 96695)
Gần đây tôi có dịp đọc một số tài liệu của người trong nước viết về văn học miền Nam 1954-1975. Rải rác đó đây không ít, nhưng gom vào một mối thì có thể kể ra hai nguồn. Thứ nhất là bài phỏng vấn khá thú vị của chị Thụy Khuê, đài RFI bên Pháp, với nhà phê bình Vương Trí Nhàn, hiện sống tại Hànội, xung quanh đề tài văn học miền Nam từ 1954-1975 (*).
17 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 88629)
Vào những giờ phút cuồng dại vì tâm chúng ta mù quáng thì bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra, kể cả chiến tranh. Cho nên, sự thực hành lòng từ bi và trí tuệ là điều hữu ích cho tất cả, nhất là đối với những người có trách nhiệm điều hành công việc quốc gia, khi mà họ nắm trong tay quyền lực và phương tiện có thể tạo dựng nền hòa bình cho thế giới.
29 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 29776)
Mọi Rợ văn hóa [cultural barbarism]. Thoạt nghe có vẻ lạ tai, nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy thấm thía. Đọc cổ thư Trung Hoa, thường thấy những người tự xưng là “người Hoa hạ” rất tự hào về tập tục đội mũ, mặc áo, dinh thự nguy nga, ăn uống tiếp khách ngồi bàn, ngồi ghế, có chữ viết, sách vở.
16 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 28279)
1945, Võ Phiến gia nhập bộ đội trong một thời gian ngắn, sang 1946 ra Hà Nội học trường Văn Lang; đến tháng 12/1946, trở về Bình Định tham gia kháng chiến, sang năm 1947 về làm thuế quan tại Gò Bồi. Năm 1948, ông kết hôn với cô Võ Thị Viễn Phố (Võ Phiến là Viễn Phố nói lái) và ông dạy học ở trường trung học bình dân Liên Khu V.
15 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 35630)
Khác với Nam Cao, người trí thức của Nguyễn Mộng Giác không rơi vào dằn vặt vì vật chất "cơm áo gạo tiền". Ông ý thức sự quan trọng của vật chất nhưng không bao giờ cho đó là vấn đề lớn đối với trí thức. Sau chiến tranh, ông hiểu khó khăn, thiếu thốn là đương nhiên. Điều ông khắc khoải là bị đứng bên lề cuộc sống.
17 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 159964)
Tìm hiểu về rùa Hoàn Kiếm chúng ta hãy đi ngược trở lại những trang sử Việt Nam , chính sử cũng như huyền sử, và những bài viết thực tế đương thời đã được lưu trữ trong các mạng lưới. Khi đọc những dữ liệu trên, nhiều người sẽ có một cảm tưởng những dữ kiện về rùa không được thống nhất cả về huyền sử lẫn thực tế, và có những vấn đề cần được thảo luận.
05 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 28108)
Thuật ngữ khuôn nhịp, hay cấu trúc nhịp điệu giúp ta nhận diện: sự lặp lại đều đặn theo chu kì của những bước nhịp, các âm thanh mạnh yếu. Các khuôn âm luật ấy góp phần tạo ra tính nhạc cho bài thơ. Mỗi khuôn nhịp có trường độ bước nhịp nhất định. Ở mỗi bước nhịp, số âm tiết hợp thành tiết tấu câu thơ luôn được hạn định.