- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THƠ VÀ NHẠC, THƠ VÀ CA TỪ

16 Tháng Mười Một 20187:55 CH(Xem: 24610)


DANGHIEN 1
Đặng Hiền - California 2017


Tôi không nghĩ rằng giới nhạc sĩ VN lại coi thường giới làm thơ, đến độ dùng thơ của người ta để tạo thành ca khúc, xong vất tên của người ta ra và không thèm ghi tên tác giả thơ vào tác phẩm. Vì hành động đó là hành động đốn mạt của kẻ vô sỉ, hành động ăn cắp tim óc của người khác.

Những ca khúc của VN hầu như phần chính tạo nên giá trị của ca khúc là lời ca. Một ca khúc NHẠC 50 PHẦN TRĂM, LỜI 50 PHẦN TRĂM, cái hồn của bài nhạc nó nằm trong lời hát đến hơn 50 phần trăm, nếu giòng nhạc dễ nghe sẽ đưa cái hồn của lời hát thấm vào tâm cảm của người nghe. Nhạc có hay cách mấy mà lời ngô nghê vô nghĩa, thì ca khúc ấy sẽ bị giảm giá trị rất nhiều.

Dĩ nhiên một ca khúc muốn nổi tiếng còn phải tùy vào nhiều công sức của người khác, như ca sĩ, nhạc sĩ hòa âm và nhà sản xuất.

Người nhạc sĩ giỏi, chỉ cần 30 phút với chiếc dương cầm thì có thể tạo nên một khúc nhạc, họ chỉ mới hoàn thành có 50 phần trăm, năm mươi phần trăm còn lại đó lời ca. Lời ca là linh hồn của ca khúc, nếu không có lời ca, thì không được gọi là ca khúc.

Nếu thử nghe lại toàn bộ tác phẩm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thì phần tạo nên giá trị của tác phẩm là phần lời ca nhiều hơn là phần giai điệu.

Nếu đem toàn bộ tác phẩm của nhạc sĩ Phú Quang, bỏ tất cả các lời hát phổ từ thơ của các thi sĩ, thì ca khúc của Phú Quang còn lại gì? Bởi những ca khúc khá nổi tiếng của ông hầu như phổ từ thơ.

Một người có khiếu viết lời ca, thì khi có một giai điệu người ta sẽ viết thành lời ca, và lời ca đó nếu đọc lên sẽ như một bài thơ.

Trong trường hợp những BÀI KHÔNG TÊN của Vũ Thành An trước 1975 rất hay và rất thơ, nhưng sau này nhạc sĩ Vũ Thành An viết lại ca từ mới cho những BÀI KHÔNG TÊN đó, thì không còn hay như lần đầu và phần hồn của bài nhạc nghe vô duyên và thậm chí vụng về thô kệch. Chuyện đó nói lên rằng người viết ca từ cho những BÀI KHÔNG TÊN trước và sau 1975 gần như là hai người có trình độ về chữ VIỆT hoàn toàn khác nhau mặc dù cùng mang tên Vũ Thành An.

Thật ra trong thơ đã có sẵn nhạc, không có nhạc bài thơ đó vẫn đứng vững. Tuy nhiên, nếu gặp một nhạc sĩ tài ba thì sẽ khai thác được nét nhạc tìm ẩn trong thơ và cho ra một giai diệu mới lạ sẽ thăng hoa bài thơ có thêm một đời sống mới. Như bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan, được phổ bởi nhiều nhạc sĩ như Dzũng Chinh, Duy Khánh, Phạm Duy, Anh Bằng... mỗi bài đều mang một giai điệu khác nhau lấy từ cùng bài thơ "Màu Tím Hoa Sim". ("Những đồi hoa sim" của Dzũng Chinh; "Màu tím hoa sim" của Duy Khánh; "Áo anh sứt chỉ đường tà" của Phạm Duy. Và "Chuyện hoa sim" của Anh Bằng).

Trong những năm gần đây ở Việt nam, những tác phẩm âm nhạc phổ từ thơ phần lớn tên của các tác giả thơ bị giấu đi, hoặc bị vô tình hay cố ý quên lãng bởi ca sĩ hoặc nhà kinh doanh. Có lẽ người ta sợ Nhạc sĩ bị chia danh tiếng, chia miếng ăn, và nhất là phải đóng thêm 30 phần trăm tiền tác quyền cho tác giả thơ, theo cái bộ luật quái dị về tác quyền tại VN.

Bộ luật này do một nhân viên của TRUNG TÂM BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ÂM NHẠC VIỆT NAM (VCMPC ) đăng tải trên FB (Anh Tuyet) :

[”Hiểu thêm về ĐỒNG TÁC GIẢ:

”Đồng tác giả” là những người CÙNG TRỰC TIẾP sáng tạo ra tác phẩm.

Nếu tác phẩm âm nhạc được phổ từ một bài thơ: trường hợp này được coi là tạo ra một tác phẩm mới, độc lập với tác phẩm (thơ) có trước đó; đồng thời cũng phân biệt rõ 2 tác giả: tác giả Nhạc và tác giả Lời/Thơ.

Tác giả Nhạc và tác giả Lời/Thơ: KHÔNG PHẢI LÀ ĐỒNG TÁC GIẢ, vì không cùng trực tiếp sáng tạo ra 1 tác phẩm.

Luật SHTT quy định: khi sử dụng phải xin phép tác giả và các đồng tác giả.

Theo đó, mức nhuận bút được chia đồng đều 50/50.

Trường hợp TP âm nhạc (phổ thơ) được sử dụng, phải trích 1 phần nhuận bút cho tác giả thơ. Tỉ lệ chia theo Nghị định 61 trước đây và áp dụng cho đến nay là 70/30: 70% Nhạc và 30% Thơ-Lời.

Như vậy là rõ về mặt quy định PL! Khi sử dụng Tp nhạc phổ thơ (không phải là sử dụng tác phẩm thơ) thì chỉ phải xin phép tác giả và đồng tác giả (nếu có).

Tác giả Lời-Thơ: khi sử dụng không phải xin phép nhưng phải trích một phần nhuận bút! Hoàn toàn chính đáng. Đúng Luật Việt Nam. Đúng Công ước Berne.]

Theo cái bộ luật này (nếu có), vô tình khiến cho giới viết nhạc thành những thực dân trong văn nghệ đi xâm chiếm tác phẩm thơ của thi sĩ, y như những thế kỷ trước Thực dân các nước Âu Châu đi xâm lăng đất nước người ta rồi bảo là khai hóa.

ĐẶNG HIỀN

(California Nov- 16-2018)

"

THƠ HỮU LOAN

MÀU TÍM HOA SIM

(Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...


1949

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 69654)
LTS: Giáo sư/Tiến sĩ Sokolov là một nhân vật quen thuộc với giới nghiên cứu và văn gia Việt Nam. Ông từng nghiên cứu ở Việt Nam từ đầu thập niên 1970, và sau đó trông coi phần Việt ngữ của nhà xuất bản Sự Thật [Pravda]. Trong số những tác phẩm được biết nhiều nhất của ông có tập Quốc Tế Cộng Sản và Việt Nam, được dịch in tại Hà Nội–công bố nhiều tài liệu quí về Đại Học Phương Đông, nơi hơn 50 học viên Việt đã được huấn luyện trong hai thập niên 1920-1930.
09 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 44336)
“Ai cầm gươm sẽ chết vì gươm, ai cầm bút sẽ chết vì bút. Tôi viết kinh sẽ chết vì kinh”. Đặng Thơ Thơ đã viết như vậy trong truyện ngắn “ Đi tìm bản kinh thánh cuối” như một trải nghiệm cần thiết của nhân loại và dân tộc mình.
01 Tháng Chín 201312:00 SA(Xem: 53059)
Lần đầu tiên đọc truyện của Trần Vũ, tôi sốc...Thật vậy, nếu ai đã từng đọc truyện của ông sẽ có cảm giác choáng váng trong ma trận chữ nghĩa của nhà văn. Truyện của Trần Vũ luôn tạo ấn tượng đặc biệt nơi người đọc, đồng thời cũng gây nhiều tranh cãi trong làng văn.
31 Tháng Ba 201312:00 SA(Xem: 157871)
D o thời gian quá dài của thời Bắc Thuộc, nhiều người thường cho rằng Nho Giáo đã được người Trung Hoa truyền bá mạnh mẽ vào nước ta qua chính sách đồng hóa của họ. Điều này không hoàn toàn đúng. Sự truyền bá này chỉ diễn ra một cách giới hạn trong ít thế kỷ đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo và rất yếu ớt trong những thế kỷ kế tiếp. Các nhà nghiên cứu về lịch sử, tư tưởng và văn học Việt Nam thời cổ gần đây hầu như đều đồng ý về nhận định này...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 59973)
B ài này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất, luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 ...
25 Tháng Chín 201212:00 SA(Xem: 103171)
V ới thơ của Hồ Xuân Hương ngày càng được thế-giới quan-tâm và biết đến, một vấn-đề dai dẳng trở lại: Đâu là những bài thơ đích-thực của bà? Có nhiều cơ-sở để cho chúng ta trở lại vấn-đề. Một là trong tác-phẩm mà cho đến nay thu thập được nhiều thơ chữ Nôm nhất gán cho bà, cuốn Phát hiện mới về Hồ Xuân Hương [1] do Giáo-sư Nhan Bảo, một nhà giáo Trung-quốc dạy tiếng Việt ở khoa tiếng phương Đông thuộc Trường Đại-học Bắc-kinh (trước khi ông về hưu), nhiều bài trong số 203 bài thu thập trong đó rõ ràng là không phải của bà.
22 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 106451)
L ịch sử Việt Nam có không ít những nhân vật lớn với tầm vóc tạo dựng thời đại mà cuộc đời của họ tự nó đã là những pho tiểu thuyết. Song rất tiếc, cho đến nay tiểu thuyết lịch sử Việt Nam mới chỉ dừng lại ở sự khai thác có tính chất minh hoạ lịch sử về một vài giai đoạn và một số khía cạnh của những nhân cách văn hoá lớn này...
20 Tháng Bảy 201212:00 SA(Xem: 96372)
Hồn tôi ngây ngây như người nhọc nhằn leo núi, lúc lên tới đỉnh chỉ thấy những khối đá tảng xù xì rêu phong, và nhìn trở xuống là một vực thẳm đầy mây". ( Tha hương , Văn Nghệ xuất bản 1989, trang 1849). Đó là hình ảnh nhà văn Nguyễn Mộng Giác với Mùa biển động.
22 Tháng Năm 201212:00 SA(Xem: 106137)
C hiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt, ... mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được. Nhưng đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua, đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm hiểu khó có thể chối cãi.
26 Tháng Tư 201212:00 SA(Xem: 91858)
Vì đấu tranh cho tự do tôn giáo và cho dân chủ, nhân quyền, Ngài đã bị nhà chức trách tống tù từ tháng 6 năm 1977. Đến năm 1982, Ngài cùng thân mẫu bị trục xuất về nguyên quán xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình để quản thúc. Mười năm sau Ngài trở vào Nam hoạt động công khai đòi duy trì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tháng 1 năm 1995 Ngài lại bị Công an thành phố HCM bắt giam, kết án 5 năm tù và 5 năm quản chế.