- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Hạc Thành Hoa những ám ảnh trăng vàng nguyệt

17 Tháng Bảy 201112:00 SA(Xem: 96855)

 


 

hacthanhhoa-content

Thi sĩ Hạc Thành Hoa


Đến nay, Hạc Thành Hoa đã có 4 tập thơ được công chúng đón nhận: 2 trước năm 75 (Trong Nỗi Buồn Vàng, Một Mình Như Cánh Lá), và 2 sau 75 (Khói Tóc, Phía Sau Một Vầng Trăng).

Ở 2 tập trước do Văn và Giao Điểm ấn hành là những bài thơ viết về tình yêu, về thân phận con người luôn cô đơn trong nhịp sống ồn ào phố phường và bụi phấn, về những thấp thỏm trước cuộc chiến đang hồi lan rộng cùng nỗi ám ảnh về cây súng, quân trường, ba lô, giày trận…

Thời kỳ sau là sự thay ngôi đổi chủ đột ngột, phũ phàng, cứ ngỡ ông sẽ có những vần thơ véo von chim hót một bầy trước cung đình tráng lệ như một số (không nhiều) nhà thơ khác, nên tôi cố công đọc 2 tập sau, cố công “bới lông tìm vết” vì đầu óc luôn nghĩ đã là nhà giáo ưu tú được phong tặng, hẳn nhiên giọng điệu thơ sẽ có khác đi.

Đọc mãi, tìm mãi cũng chỉ có những rung động tơi tả trước sau, luôn tự nhìn chính mặt mình với cô đơn bất khả, luôn chất chứa những ưu uất trong lòng. Những cô đơn và ưu uất kia thánh thiện và thuần khiết như những giọt sương long lanh buổi sớm mai được dẫn dắt bởi nguyệt, trăng cùng với màu vàng buồn thê thiết.

Có thể nói, cả 4 tập thơ đã ấn hành của ông luôn thấp thoáng Trăng là Nguyệt là màu vàng rụng xuống hồn ông. Có cả hàng chục tựa bài thơ và hàng trăm câu thơ dát bóng trăng lạnh xa gần chiếu dọi như là những nỗi niềm trải dài, che kín cả một màu chia ly ở đôi bờ khắc khoải, nhớ nhung. Chừng như với ông, Trăng là nỗi ám ảnh một kiếp lưu đày, là nguyệt vàng nhuốm màu thời gian trước và sau của những mất mát, tìm kiếm, khao khát… vây phủ cả đời cuộc ông vậy. Trăng với ông là mối tình câm lạnh. Nguyệt vàng trăng là tâm cảm triền miên những con sóng vỗ vào bờ đá “tình người”:

Tình người bờ đá trăm năm

Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước trôi.(Trên bờ đá tình người)

Bờ đá không còn là ẩn ngữ với ông, trong thơ ca, mà chính là hiện hữu phận người. Đó cũng là nỗi cô đơn của thời gian không thể đo đếm bằng những con số hữu cơ và phải chăng “tình” trong uẩn khúc nguyệt vàng trăng cứ mãi mê trườn cuộn trên phận người “trăm năm cô đơn” kia?

Nếu như những ngày lang bạt ở sông nước miền Tây, không gặp ông, không ăn đậu ngủ nhờ ở căn gác trọ của ông thì tôi không thể tin nổi ông là một con người đa cảm, đa đoan đến vậy. Mà căn gác ấy, căn nhà bên con rạch Cái Sơn, Sa Đéc đâu chỉ riêng mình tôi, còn có cả Vũ Hữu Định, Nguyễn Tôn Nhan, Hà Nghiêu Bích, Yên Bằng… kẻ trước người sau đến với ông như chút ấm áp của những que củi nhỏ buổi tàn đông, như hơi thở nguội sau những đêm dài đông cứng những cốc rượu tràn. Căn phòng nhỏ nhìn ra con rạch êm đềm, đầy bóng râm mát, đầy tiếng tiếng ve trên những tàn cây cổ thụ và tiếng đàn và thơ. Thơ như khí trời bám khắp bốn bức vách loang lổ, đổ xuống nền gạch tàu, treo lủng lẳng trên xà ngang, ám vào mái ngói âm dương rêu phong. Thơ quấn quít bên kệ sách, ngập ngừng chao lượn trên sàn gạch màu lá bàng bay lơ lửng trong không. Tiếng mái chèo quẫy nhẹ như chiếc vây bơi con cá chẽm bên dưới dòng Cái Sơn. Xa hơn chút, tiếng máy đuôi tôm khua động mặt sóng sông Tiền. Và nữa, tiếng đạn pháo ngoài lung xa, vũng sáng nhơm nhớp hỏa châu che khuất ánh trăng… đã đẩy ông vào góc tường tróc lở từng mảng vôi. Ông rưng rưng sợi dây đàn căng. Ông ngậm ngùi lưng tròng nhìn qua dòng sông đang với tay níu choàng con rạch nhỏ đặc sệt một dòng trăng vàng thấu đáy (nhưng cái đám bằng hữu “nhìn thấy cơm sôi chợt nhớ nhà” kẻ trước người sau, lần lượt quay về xó cũ bỏ ông lại một mình với cảnh “Gã giang hồ vẫn gác trọ cô đơn…Thân ta đôi lúc cơn gió lạnh/Thổi tạt mùa đông xuống đáy mồ”!).

Khoảng thời gian ấy, không bao giờ những vò rượu Lai Vung, Lấp Vò nhấn lút được những câu thơ từ chốn sâu thẳm tâm hồn ông tha thướt bước ra như một thiếu nữ khuê các. Nàng đẹp đến não nùng. Nàng Lục Bát của ông khoác áo màu hoàng yến tắm trăng. Mảnh xiêm y rơi nhẹ. Trăng ướt đẫm nàng, ve vuốt nàng rồi trần truồng phơi ra những thiên hà ngập ngừng bên cạnh con nước sông Tiền lên xuống.

Bên kia con rạch là Trăng vàng và bên này là nhà thơ, để trăng chụp úp lên thơ, quấn quít nhau hơi thở dồn dập của đôi tình nhân.

Một đời con suối lang thang

Mây thu cánh mộng trong khoang thuyền tình (Vàng đôi cánh biếc)

Màu trăng lạnh huyễn hoặc kia chừng như không bao giờ rời xa ông, chỉ vì nó thật gần, cách nhau bằng tiếng thở của con sóng nhỏ lăn tăn, cách nhau chỉ mấy bước chân ngập ngừng, nửa quen nửa lạ. Lúc trăng xa, ông ngỡ như gần. Lúc trăng ẩn nấp đâu đó trong khoảng lặng của thời gian thì ông tưởng như Trăng đã Vàng Nguyệt rời xa ông mãi mãi, khiến ông sợ hãi cái thời khắc kinh khủng kia, thời khắc của mộng mị và những ảo giác mệt nhoài trong cơn mê lú, để, khi tỉnh lại, nỗi trống vắng càng lồ lộ như cảnh “người đàn bà ngoại tình” của Alberrt Camus trên terrasse quán trọ vùng sa mạc cận Alger, một mình, hoàn toàn cô độc. Nếu như người đàn bà của Camus cô đơn giữa bầu trời đầy sao trong đêm sâu thăm thẳm, thì ông, Hạc Thành Hoa bị người tình là Trăng vàng Nguyệt kia quay gót, bỏ lại cái hình hài thực giữa muôn trùng giun dế về đêm.

Hồn từ giã biệt cơn mê

Trăng đi bỏ lại bốn bề quạnh hiu

Đèn lu lòng ngại không khêu

Sợ trăng lên cánh rừng treo áo vàng (Trong cánh rừng thiên thu)  

Trăng vàng Nguyệt cũng giống như cái ảo giác mộng mị chìm lún trong cõi chiêm bao khiến ông cứ rơi mãi rơi hoài vào chiếc hố đen ngòm chuyển hóa từ cái màu vàng đậm đặc và huyễn hoặc kia.

Mù mưa trắng xóa chiêm bao

Mây qua biển rộng non cao tiếp trời

Áo em vàng nửa hồn tôi

Ngồi ru nắng mỏng trên đồi cây khô (Mù khuya tiếng vạc lưng trời)

Câu thơ sang trọng, đẹp khiến tôi cứ ngỡ như bên tai vang lên điệu slow ngập ngừng, buồn man mác cùng mảng màu vàng muôn thuở trong những bức tranh của Van Gogh.

Không rõ Trăng đã nói gì, hẹn hò gì với ông mà ánh mắt và cõi lòng luôn ném về chốn xa xăm đến nỗi ông bị mất thăng bằng, từ hẹn hò mộng tưởng chuyển thành nỗi tuyệt vọng như thể Trăng đã phụ tình ông.

Tìm em sau giấc mơ tàn

Mùa thu nếp áo nguyệt vàng trong mây

Đêm đêm gió chở trăng đầy

Rơi theo nước mắt từng bầy sao khuya (Trong tà huy bay)

Ông chưa hề phụ mảnh tình thoi thóp Trăng vàng Nguyệt, mà chỉ có trăng vàng nguyệt lạnh hờ hững với ông, từ cõi nào xa tít ông phải mãi kiếm tìm, như thể kẻ bị sa lầy. Đã một lần ông sa lầy khi chọn nghề dạy học ( nghề giáo là một nghề sa lầy - Camus), ngày hai buổi rút hết kiến thức phơi ra trên bảng đen; rồi lại phải làm kiếp “con tằm nhả tơ” khiến sự sa lầy nơi ông càng quay quắt, khốn đốn hơn.

Nay còn lại trong tay nùi giẻ rách

Đời mòn theo từng viên phấn ngu ngơ

Hồn ta rộng mà chỗ ngồi quá chật

Suốt một đời không vẽ nổi ước mơ…

…Chiều hôm nay không dưng buồn quá đỗi

Ta hôn mê đầu gục trước bảng đen

Khu trường rộng một bãi lầy quá lớn

Ta thấy mình ngày một lún sâu thêm (Bậc thang thứ nhất)

Hay:

Mười năm bụi phấn hòa nước mắt

Đem đắp thành pho tượng thạch cao (Pho tượng thạch cao)

Có thể tạm mượn tựa những “Điêu tàn, Mê hồn ca…” để làm nền lý giải cho một giai đoạn sáng tác trước 75 của Hạc Thành Hoa, giai đoạn của những u uẩn vì thất vọng, vì hoài nghi, vì những âu lo hoảng loạn màu hỏa châu che lấp nguyệt vàng, nên trong hồn ông, hình như chỉ còn khoảng không hẹp của sự thoi thóp, dãy dụa: “Trăng úa vàng hấp hối giữa cô đơn” hay “Từng đêm trăng múa trên đầu sóng/Trăng cười khiêu vũ với yêu ma/Men nhạt không mờ đôi mắt héoNghe trời tê dại nhớ thương em”.

Những yêu ma, men nhạt, mắt héo…có thể không còn là những mảnh vỡ lăn tăn nhạt nhòa mà là những mảnh vỡ quặn đau, tê điếng thẩm nhập tận cùng nơi sâu thẳm tôm hồn ông: Vì bên kia sông Trăng vẫn vàng Nguyệt còn bên này sông thì Nguyệt bắt đầu che khuất ánh trăng vàng! Một bên vẫn rực rỡ tung tăng một khoảng không vô tình đến trống rỗng, còn một bên thì vỡ tung những khối u lạnh câm. Kiêu sa hay hờ hững dáng cao sang?

Nàng Trăng luôn ám hồn ông là ai để đến nỗi thành những ám ảnh nặng nề trong suốt quãng dài thời dài rộng đến mênh mông, đến vô cùng tận? Trăng là Nguyệt là Trăng viễn mộng chăng? 

Ông yêu tha thiết cái màu vàng trăng là nguyệt kia đến độ gần như phát cuồng

Có con rắn lục nằm trong lá

Rít một hơi dài lạnh buốt xuân…

Trăng bỏ người đi đêm nguyệt tận

Ly rượu hề môi chạm tảng băng…

Ai mang áo lụa vàng năm ấy

Mỗi cánh mai giờ một nỗi đau (Đêm nguyệt tận)

Ông viết bài này năm 1990 bằng những hồi tưởng về một nỗi đau, mất mát đã ám suốt cuộc đời như lớp bồ hóng đen bóng trên gác bếp. Ông như một người chiến binh ngoài mặt trận, đang ngã ngựa. Bóng trăng đã xô ông té nhào đến thê thảm:

Ta chẳng còn là mây mùa thu trước

Em không còn là trăng của thu xưa (Lại một mùa mưa sắp đến)

Không, rõ ràng ông không là một Hàn Mặc Tử thứ hai để say trăng, để điên vì trăng. Bởi màu trăng của Hàn Mặc Tử là màu trăng huyết, nhuốm đỏ cả khung trời, trước mắt nhà thơ. Đó là những cơn đau đớn vật vã đến cuồng loạn. Còn trăng của Hạc Thành Hoa là màu trăng của “Áo lụa Hà Đông, là trăng hoàng yến, là cánh mai vàng… Nó có đó, thật gần trong cái với tay nhưng lại vô cùng xa cách để cuối cùng, màu Nguyệt vàng Trăng ấy biến những khoảng cách nồng nàn kia trở thành những cơn mộng huyễn. Ông đuổi bắt, tìm kiếm hình bóng lay lắt có không kia đến mỏi mòn…

Ông đi tìm bóng, mỏi mòn tìm bống đến hụt hơi.

Ông say mộng chỉ vì say nhan sắc màu trăng, theo ngày tháng đã tẩm liệm hồn mình.

Ông say trăng trong cõi mộng mị ta bà suốt những năm tháng dài.

Cuối cùng ông say thực:

Thức ăn và rượu đều ra hết

Còn lại trong ta một nỗi buồn

Nỗi buồn lớn quá xô ta ngã

Nằm dài như xác chết chưa chôn (Cơn say tuyệt vời)

 

Sau năm 75, cũng như bao nhiêu nhà văn khác, Hạc Thành Hoa bị rơi vào vùng hẫng hụt của những nghị quyết, bo bo, sắn mì… Cả bối cảnh xã hội và hoàn cảnh cá nhân đã đặt ông vào tình cảnh trì trệ, đầu óc khô cứng. Dẫu vậy ông vẫn cầm bút và tiếp tục viết, để cuối cùng cũng cho ra mắt độc giả 2 tập Phía Sau Một Vầng Trăng và Khói Tóc. Song thú thật, khi đọc tôi có cảm giác như thơ ông đã sắp ngừng hơi thở những cơn mộng mị đẹp, đối mặt với thực tế có phần khắc nghiệt hơn nhiều, bởi hoàn cảnh xã hội đã chọn chúng ta chứ chúng ta không có quyền chọn lựa gì cả. Cái quyền thiêng liêng bất khả kia giống như ngọn đèn cạn dầu, leo lét.

Thơ ông như mất đi một phần của nàng thơ mà ông đắm đuối một thời, chỉ còn một chút tròng trành trước mắt, chia sẻ với bạn bè đồng cảnh; chút đìu hiu về một nỗi nhớ xa gần hay ghi lại những cảm xúc trong những chuyến đi xa: Sơn Trà, Hội An… rồi lộn vòng về cố xứ đồng bằng sông nước mênh mông. Thỉnh thoảng ông vẫn nhớ đến Trăng, nhưng Trăng lúc này, với ông bắt đầu sứt sẹo, mất đi một nửa Trăng vàng Nguyệt.

Ở đây trăng chỉ còn một nửa

Nửa kia ở mãi tận phương nào

Tỉnh dậy chỉ còn trăng một nửa

Nửa còn lại bỗng hóa phù vân (Trăng một nửa)

Rồi ông phải tự kêu với chính mình, trong cơn mưa, ở một ngóc ngách nào đó trên đường phố Sài Gòn rất quen mà hóa lạ!

Em biết không

Ở đâu anh cũng là người khách lạ

Ở đâu cũng không phải quê hương

Em ơi! Làm sao em biết được

Một gã ưu du

Cứ đi cứ đi như kim đồng hồ chạy ngược (Nói với mình trong khi trú mưa)

Ở một đoạn khác:

Chỉ còn con cù lần biết lấy tay che mặt

Những con két đến đây từ một nơi rất xa trên trái đất

Đang gửi hồn về xứ sở quê hương (Buổi trưa ở thảo cầm viên)

Đó là tâm trạng chung ta thường thấy trên các trang viết sau này của nhiều nhà văn chân thật

Và cuối cùng đành bất lực, phải thú nhận:

Suốt đời đuổi bắt một vầng trăng

Chưa có được một lời ngợi ca người vợ trẻ

(…)

Bên anh có một nàng tiên dịu dàng là thế

Mà cứ miệt mài đuổi bắt một vầng trăng (Tạ lỗi cùng người vợ trẻ)

Như vậy là chấm dứt một chặng đường mộng mị bên cạnh những tân toan mà trước đây có lần ông thốt lên đầy đau đớn.

Mai tôi chết nhưng vầng trăng còn đó

Vẫn dịu dàng trông xuống nấm mồ tôi (Vẫn còn vầng trăng…).

Đúng là cái hồn cái phách trong thơ ông vẫn vậy, ở hai tập sau, nhưng chất sâu lắng của nó thì tan ra thành lớp khói mỏng, không phải màn sương đêm dát trăng vàng nguyệt như trước. Có lẽ cũng tại “vì ai gây dựng cho nên nỗi này”. Phải vậy không?

 

 (Tháng 4/2011)

 

Hạc Thành Hoa tên thật: Nguyễn Đường Thai Sinh quán tại Xuân Phổ, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giáo sư Việt văn Trung học Sa Đéc, Lương Văn Can Quận 8, Thị xã Cao Lãnh. Ông làm thơ từ năm 1961, đã đăng nhiều thơ trên các báo, tạp chí văn học miền Nam trước năm 1975 .

Tác phẩm đã xuất bản:
+ Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn – XB – 1971).
+ Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản – 1973), tái bản (Thư ấn quán Hoa Kỳ xuất bản) 2006.

+ Phía sau một vầng trăng (NXB Thanh niên – Hà Nội – 1995).
+ Khói tóc (NXB Lao động – Hà Nội – 1996).

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Năm 20198:54 CH(Xem: 19393)
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình trung nông lớp dưới. Bố Huy Cận đậu tam trường làm hương sư ở Thanh Hoá, sau về quê dạy chữ Hán và làm ruộng. Mẹ Huy Cận là cô gái dệt lụa làng Hạ nổi tiếng ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ.
24 Tháng Tư 201911:02 CH(Xem: 20345)
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Trong cuốn sách của mình với tựa đề "và Sài Gòn sụp đổ" (Et Saigon tomba - Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện 'quan trọng nhất' với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris: Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là "một người minh mẫn và nắm vững tình hình". Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
17 Tháng Tư 20197:44 CH(Xem: 20016)
Tám bài thơ viết về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên mà chúng tôi đã/ sẽ khảo sát đều được đại thi hào Nguyễn Du viết khi chu du trên sóng nước Tiêu Tương, vùng Hồ Nam - nơi nổi tiếng với “Tiêu Tương bát cảnh” từng thu hút cảm hứng vô hạn của bao thế hệ văn nhân, nghệ sĩ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…
08 Tháng Tư 20199:47 CH(Xem: 18907)
Khoảng thời gian ba thế kỉ XVII-XVIII-XIX là thời thịnh của thể loại truyện nôm. Các nhà văn thời này đều có chấp bút và đã lưu lại nhiều tác phẩm văn chương lôi cuốn nhiều thế hệ người đọc. Truyện Phan Trần là một truyện nôm ra đời trong thời kì này, cụ thể là khoảng cuối thế kỉ XVIII, trễ lắm là đầu thế kỉ XIX.
02 Tháng Tư 201910:27 CH(Xem: 21484)
Cũng như hai bài thơ Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu đã khảo sát ở phần I, trong các bài thơ còn lại về chủ đề này, Nguyễn Du vẫn say mê trò chuyện, luận bàn, thậm chí tranh cãi với Hồn oan nước Sở từ hơn hai ngàn năm, như hồn đang hiển hiện quanh quất bên mình, trên dòng sông lịch sử tựa một nấm mồ lớn đang vùi lấp thân xác của một con người tri âm tri kỷ đặc biệt đối với ông.
09 Tháng Ba 201910:26 CH(Xem: 22700)
Hơn hai trăm năm trước, trong một cuộc “Bắc hành”, đại thi hào Nguyễn Du đã viết tới tám bài thơ chữ Hán về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất Nguyên. Trong “tòa lâu đài” thơ chữ Hán Nguyễn Du (Mai Quốc Liên), có một mảng thơ rất quan trọng là nói về các danh nhân văn hóa - lịch sử, đặc biệt là về các bậc thầy văn chương Trung Hoa. Tám bài thơ nói trên mà chúng tôi sẽ khảo sát có trữ lượng suy tưởng - cảm xúc cực kỳ phong phú, sâu sắc, cho thấy cả trái tim lớn của đại thi hào nước Việt dành cho một nhà thơ-nhà ái quốc vĩ đại của Trung Hoa cổ xưa, đồng thời thể hiện bút pháp siêu việt của Nguyễn Du trong khả năng khám phá chiều sâu tâm hồn bản thân lẫn đối tượng miêu tả, trong sự sáng tạo về nghệ thuật ngôn từ của một nhà văn-nghệ sĩ Việt Nam kiệt xuất thời Trung đại.
05 Tháng Ba 20198:59 CH(Xem: 22309)
Huế là xứ thơ. Có lẽ do các yếu tố lịch sử, phong cảnh và nếp sống, vùng đất sông Hương núi Ngự là nơi sản sinh ra nhiều nhà thơ – cả nổi tiếng lẫn khét tiếng. Nếu kể hết tên, chắc chắn sẽ thiếu sót. Bài này chỉ viết lơn tơn – không phải với mục đích phê bình văn học hoặc tài liệu giáo khoa gì ráo – về hai tác giả mà cuộc đời và sự nghiệp có những liên hệ oái oăm về thân tộc và chỗ đứng của họ trên văn đàn và trong lòng độc giả.
24 Tháng Giêng 201911:51 CH(Xem: 20598)
Lâu nay, trong tiếng gào khóc của người dân oan khắp ba miền đất nước, hoà trong nước mắt bao giờ cũng có những kể lể, trách mắng, đầy phẫn uất với tiếng “nó”: nó đến kìa; nó rình rập; nó ác lắm;… hay chúng nó tàn nhẫn lắm!
03 Tháng Giêng 201911:15 CH(Xem: 26823)
Chữ Nghiệp mang sắc thái đạo Phật đó được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học phân tích khá kỹ lưỡng, xoay quanh thuyết Thiên mệnh hay Định mệnh, thuyết Nghiệp báo - Nhân quả chủ yếu để nói về thân phận nhân vật nàng Kiều. Nhưng thiết nghĩ, hai câu thơ ấy, đầu tiên phải vận dụng ngay cho chính tác giả của nó. Cái Nghiệp đó, đối với Nguyễn Du, từ thời trai trẻ, đã được ông coi như “án phong lưu” mà ông phải tự nguyện mang tới suốt đời! (Phong vận kỳ oan ngã tự cư)(2). Nghiệp gì vậy? Có điều gì hệ trọng và thống thiết buộc Nguyễn Du phải bật lên lời tự vấn về giá trị sự tồn tại của ông trong cõi đời phù du này khiến nhiều thế hệ người Việt Nam phải xúc động và gắng tìm hiểu nguyên do: Trước khi chết còn lo mãi chuyện nghìn năm (Thiên tuế trường ưu vị tử tiền. Mộ xuân mạn hứng) - Không biết hơn ba trăm năm sau, Thiên hạ ai là người khóc Tố Như? (Bất tri tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Độc tiểu thanh ký).
14 Tháng Mười Hai 201810:00 CH(Xem: 27527)
Này nhé, lấy cảm hứng, phỏng theo, hay gì gì đó mà không ghi nguồn thì tức là cầm nhầm bài thơ, dù có biện hộ thế nào đi nữa cũng nói lên "đạo đức và tư cách " của cái việc cầm nhầm. Tài năng như khói, danh vọng như mây, nếu không muốn thiên hạ biết thì đừng có làm như cố tình quên.