Đến nay người mình thấy Tây học rực rỡ mà cái học của ta khi xưa mập mờ không rõ, sách vở không có mấy, liền cho cái học của ta không có gì. Đó là một điều mà các học giả trong nước nên chú ý mà xét cho kỹ, đừng để cái hình thức bề ngoài làm hại mất cái cốt yếu bề trong. Nho Giáo tuy không gây thành được cái văn minh vật chất như Tây học, nhưng vẫn có cái đặc tính đào tạo ra được cái nhân cách, có phẩm giá tôn quí.
Trong số những trận đánh có tầm chiến lược quan trọng từ 1959 tới 1975, cuộc tổng tấn công vào các thành phố và tỉnh lỵ miền Nam đúng dịp Tết Mậu Thân (1968) được liệt vào hàng đầu. Đây là một chuyến “làm ăn” táo bạo của Lê Duẩn (1908 - 1986), Bí thư thứ nhất Đảng Lao Động [Cộng Sản] Việt Nam, đưa đến những thiệt hại to lớn về nhân sự cho Bắc quân. Nhưng về mặt chính trị và ngoại giao – dù có dự đoán trước hay chăng – ba đợt tấn công vào Sài Gòn - Chợ Lớn trong năm 1968 tạo một ảnh hưởng sâu đậm tại chính nước Mỹ.
Trai gái có tình, tình ấy thể hiện trong thơ ca, trao gửi bằng thơ ca và loại thơ đó gọi là thơ tình. Vấn đề tưởng đơn giản vậy mà thực tế đôi lúc lại như một thách đố khi ta tiếp xúc với thơ tình Việt Nam cổ trung đại, nhất là ở thời kỳ đầu của sự hình thành mà sự hình thành này tính đến thế kỷ XVIII, ít nhất cũng chừng bảy thế kỷ văn chương.
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi 1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn.
Bài viết này viết với tâm thành của một người trong cuộc nhìn lại mình, nhìn lại bạn bè, nhìn lại thế hệ mình, nhìn lại tầm ảnh hưởng những tư tưởng ấy trên mỗi cá nhân. Nó đã cuốn lốc theo cả một thế hệ như cơn lũ, kéo theo những bè mảng, những *ngộ nhận*, những *huyền thọai* từ nhiều phía, ngay cả những om sòm nếp sống chán chường buông thả. Nhưng nó cũng nâng lên tầm cao ý thức trách nhiệm, *dấn thân*, *nhập cuộc*, *lên đường* và đưa đến những quyết định chọn lựa, những thái độ trước thời cuộc của từng người..
Vấn đề có tính thời sự của ngành nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay là xác định rõ quan điểm và phương pháp tiếp cận mới đối với lịch sử văn học dân tộc. Trong đó, quan điểm đánh giá một bộ phận văn học có tính “nhạy cảm” như văn học của các tác giả lưu vong thời trung đại, văn học vùng tạm chiếm trước đây, văn học của một số tác giả thời kỳ 1930-1945, một số tác giả thuộc nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, văn học hải ngoại hiện nay, văn học của một số dân tộc như Chiêm Thành, Chân Lạp, hay cả như văn học triều Nguyễn...
Trong lịch sử văn học Nhật Bản có những giai đoạn “hạ khắc thượng” (gekokujô) tức là “dưới lấn trên” khi văn chương bình dân ảnh hưởng ngược lên văn chương cung đình. Người viết e rằng khuynh hướng chung của thế giới là đang đi vào một thời buổi ấy khi văn học đại chúng, vốn bị coi là văn chương thấp kém, không có giá trị cho lắm lại nắm vai trò chủ đạo.
... lịch sử Việt Nam, dưới mắt nhiều học giả thế giới,
chỉ là một thứ câu chuyện thêm thắt vào [anecdotes] chính sách và sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật, v.. v... Người Việt cũng có lý do riêng để không muốn thấy có một tiểu sử chính xác về Diệm, từ chính trị, tôn giáo, tới ý thức hệ. Nên chẳng ngạc nhiên khi khối văn chương hiện hữu về họ Ngô hay Đệ nhất Việt
Nam Cộng Hòa tràn ngập những lời “cung văn” hoặc “đào mộ,” bất chấp sự thực... Bài viết này nhằm điền vào khoảng trống nói trên.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.