- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ “Trung Quân” Sang “Ái Quốc” - Phần 2

08 Tháng Mười Một 201012:00 SA(Xem: 7028)
III. NỖI KHỦNG HOẢNG CỦA NHỮNG NHÀ ÁI QUỐC GIAO THỜI:

Suốt triều Duy Tân, các sĩ phu kháng Pháp đối diện một nỗi khủng hoảng thường trực. Một mặt, thể chế giáo dục, chính trị dựa theo Khổng học ngày một tàn lụn. Quan điểm “trung quân” trên lý thuyết không phải trung thành với một cá nhân, mà là ngôi Vua, một biểu tượng nửa người nửa thánh, thay Trời cai trị thiên hạ mất dần sức quyến rũ. Sự hiện diện của người Pháp và tư tưởng, văn chương Pháp, giới thiệu với các sĩ phu Việt những ý niệm mới về “quốc gia” (state), “quốc dân” (citizen), với hệ thống tổ chức chính quyền, luật pháp, kinh tế, chính trị, truyền thông, cá nhân chủ nghĩa, nhân và dân quyền hoàn toàn mới lạ. Khuynh hướng “ái quốc” nguyên chỉ dựa theo bản năng và nhu cầu sở hữu của mỗi cá nhân, đại gia đình, cùng chủng tộc chủ nghĩa bị chuyển hướng dần về biểu tượng một đơn vị chính trị với biên cương rõ ràng, qui định bằng các hiệp ước với lân bang, và sự chung vai, sát cánh của nhiều cộng đồng sắc tộc, lớn hay nhỏ.

Nhưng thực tế chính trị thuộc địa hoàn toàn trái ngược. Xâm chiếm và thống trị đất nước là ngoại nhân, độc lập và chủ quyền bị tước đoạt. Để “bảo hộ” một cách hiệu lực, người Pháp đặt để lên ngai vàng một ông vua vô quyền lực, hoặc nhỏ tuổi, chẳng có công dụng gì hơn một bó hoa vương giả. Giai tầng thượng lưu bản xứ xuất thân các trường huấn luyện quan lại, hay những trường Pháp - Nam và Cao đẳng huấn luyện công chức ngạch bản xứ hay không thì hầu hết chỉ gồm những cá nhân và gia đình mới nổi, đa số là giáo dân Ki-tô, xuất thân thông ngôn hay bồi bếp của các viên chức Pháp. Những quan lại cựu triều, nếu chưa bị loại bỏ, chỉ biết đến quyền lợi bản thân và gia đình. Với họ, “trung quân” hay “ái quốc” không thể so sánh cùng sự trung thành với Bảo hộ hay Hội truyền giáo, những nguồn cung cấp bát cơm, manh áo và danh lợi.

Cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Hoa lần đầu tiên giới thiệu, một cách thực tiễn, với các nho sĩ Việt chủ thuyết dân chủ tư bản của Liên bang Mỹ, qua hình thức Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên. Những người ủng hộ mô thức “quân chủ lập hiến” cũng chợt cảm thấy bị lỗi thời. Lúng túng và khủng hoảng hơn nữa là ước mơ duy tân theo Pháp hay Trung Hoa đều bế tắc, vì tất cả đều trái ngược với con đường duy tân hay khai hoá mà các chính phủ Pháp muốn người Việt và nước Việt phải đi qua. Đó là chưa nói đến quyết tâm độc quyền trung gian của Hội Truyền giáo.

1. Phan Bội Châu và Cường Để tại Trung Hoa:

Trong năm 1909, Phan Bội Châu lo việc tiếp tế khí giới cho Đề Thám nhưng không thành công. Chuyến đi Sư Tử Thành và Xiêm La cũng chẳng thu được kết quả nào vì Xiêm mới ký hiệp ước hữu nghị với Đông Dương. Cử nhân Châu phải trở lại Quảng Đông ẩn nhẫn chờ thời. Qua năm 1910, Phan Bội Châu xuống Xiêm La lần thứ ba, cùng Đặng Thúc Hứa toan lập đồn điền với các di dân Ki-tô Việt tại đây. Được khoảng 8 tháng, cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) lại khiến Cử nhân Châu, có lẽ do ảnh hưởng Lương Khải Siêu, vội ngược về Hoa Nam, định nương dựa thế lực Tôn Dật Tiên. Thời gian này, tư tưởng Dân chủ Tư bản, và nhất là khả năng trợ giúp của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bắt đầu chi phối mạnh mẽ những nhà nho phái Đông Du.

Năm 1912, Cử nhân Châu thuyết phục được Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền và các đồng chí bỏ chủ trương quân chủ lập hiến, thiết lập Việt Nam Quang Phục Hội (VNQPH). Cường Để, dù vắng mặt, được cử làm Hội Chủ, kiêm Bộ Truởng Tổng Vụ bộ. Phan Bội Châu làm Phó Hội Chủ. Hải ngoại có Bình Nghị Bộ (Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, và Nguyễn Thần Hiến) và Chấp Hành Bộ (10 hội viên). Trong nước có 3 ủy viên là Đặng Bỉnh Thành (Nam), Lâm Quảng Trung (Trung), và Đặng Xung Hồng (Bắc). Quốc kỳ là cờ vàng, sao đỏ; quân kỳ thì nền đỏ, sao trắng. Sau đó, Phan Bội Châu lên Nam Kinh xin gặp Tôn Dật Tiên, nhưng không được tiếp kiến.(70)

Trong hai năm 1913 và 1914, VNQPH tổ chức được một số vụ bạo động tại nội địa. Những cuộc bạo động này, như lời “cáo bạch” của Quang Phục Quân rao truyền, “muốn chóng cứu cho dân tôi khỏi khổ, phải chuốc lấy tạc đạn làm cái mối yêu cầu với chính phủ nước Pháp.”(71) Xế trưa ngày 12/4/1913, Quang Phục Quân ném tạc đạn giết chết Nguyễn Duy Hàn khi Tuần Phủ Thái Bình ngồi xe kéo rời dinh. Hai tuần sau, ngày 26/4, thêm một vụ ném lựu đạn khác xảy ra trong một khách sạn ở Hà Nội, giết chết hai Thiếu tá Pháp, và gây thương tích cho nhiều người, cả Pháp lẫn Việt. Sau hai vụ khủng bố này, ngày 2/5, Sarraut lập một Hội đồng Đề hình do Bourcier Saint-Chaffrey làm Chủ tịch. 99 người bị truy tố ra tòa. Ngày 5/9, Hội đồng Đề hình kêu 7 án tử hình, 1 án chung thân khổ sai, và 8 án đầy. Chỉ có 1 người bị xử tử ngày 24/9 tại Hỏa lò Hà Nội. 6 đảng viên Quang Phục–Cường Để, Phan Bội Châu, Nguyễn Cẩm Giang (Hải Thần), Nguyễn Quỳnh Chi tự Hai Thác, Nguyễn Văn Tuy tự Tài xế, và Nguyễn Bá Trác–bị tử hình khiếm diện.(72)

Tại Sài Gòn, cũng xảy ra vụ 600 tín đồ của “Phật sống” Phan Xích Long (Phan Phát Sanh) muốn phá ngục Chí Hòa ngày 24/3/1913, và đặt bom tại nhiều địa điểm. Tuy nhiên, cuộc nổi dạy này dường không liên hệ gì đến tổ chức của Phan Bội Châu.(73) Tháng 9/1913, Sarraut dàn xếp qua thăm lãnh chúa Lưỡng Quảng là Long Tế Quang, và thuyết phục Quang ngừng yểm trợ các hoạt động kháng Pháp. Ngày 18/1/1914, Quang bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng.(74) Sau khi Thế chiến thứ nhất (1914-1918) bùng nổ, ngày 15/3/1915, Nguyễn Cẩm Giang (Hải Thần) dẫn đầu nghĩa quân tiến đánh Tà Lùng, một đồn biên giới nằm giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Tuy nhiên, cuộc tấn công này chỉ có giá trị tinh thần hơn quân sự.(75)

2. Hoàng Hoa Thám Bị Ám Sát:

Cuối năm 1912, Tri huyện tập sự Lương Văn Phúc–mới tốt nghiệp trường Sĩ Hoạn Hà Nội–cùng cha nuôi là Lương Tam Kỳ, cựu thủ lãnh thổ phỉ người Hoa ở vùng Thái Nguyên, đưa ra một kế hoạch để diệt Đề Thám. Sarraut chấp thuận. Kỳ và Phúc bèn thuê ba sát thủ người Hoa giả quy phục Đề Thám, rồi mờ sáng ngày 10/2/1913, bất thần hạ sát. Thủ cấp Đề Thám và hai cận vệ bị treo lên trước chợ Nhã Nam suốt hai ngày.(76)

3. Phan Châu Trinh Tại Pháp:

Tại Paris, dù ăn lương của chính phủ Đông Dương, Phan Châu Trinh tương đối tự do. Liên hệ giữa Phó bảng Trinh và Đoàn Giáo Dục Đông Dương ở Pháp chỉ có việc ghé qua trụ sở ký tên lãnh tiền mỗi tháng. Tới năm 1914, Phan Châu Trinh vẫn chưa có tiến bộ đáng kể về tiếng Pháp. Về chính trị Phan Châu Trinh khá thận trọng, không để lộ hành động khả nghi nào.(77) Thực tế, từ năm 1912, Phó bảng Trinh bắt đầu thân thiết với Phan Văn Trường (1878-1933), lúc ấy đang theo học Tiến sĩ Luật tại Paris. Với sự cộng tác bí mật của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường lập ra hội Đồng Bào Thân Ái nhằm kết nạp các du học sinh ở Pháp. Qua sự giới thiệu của Phan Văn Trường, Phó bảng Trinh tiếp xúc một số chính khách tả phái và cấp tiến thuộc Hội Nhân Quyền và Đảng Xã Hội như Dân biểu Francis de Pressensé và Marius Moutet. Chính Phan Văn Trường thông dịch giúp Phan Châu Trinh khi được báo chí Pháp phỏng vấn về những biến cố ở Đông Dương, và là dịch giả bản Trung Kỳ Dân Biến đăng trên Thành Tích Biểu Hội Bảo Vệ Nhân và Dân Quyền ở Hà Nội năm 1913. Bản trần tình này chỉ khiến liên hệ giữa Sarraut và Phan Châu Trinh thêm xa, lạnh.

Tại An-Nam, Charles đã được đưa về Huế làm Khâm sứ. Charles và các đồng liêu cho rằng Phan Châu Trinh hay Phan Bội Châu đều cùng một mục đích giành độc lập cho dân Việt. Xét trên thực tế và lâu dài, nhóm Phan Châu Trinh còn nguy hiểm hơn tổ chức của Phan Bội Châu, vì Phó bảng Trinh tạo nên tinh thần khích bác quan lại và triều đình Huế, đưa đến sự hỗn loạn và có thể tình trạng vô chính phủ nguy hiểm. Sarraut cũng đặc biệt quan tâm việc Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, dù ở Côn đảo, tiếp tục liên lạc thường xuyên với thân nhân (em trai) ở Xiêm La và Phan Châu Trinh. Dẫu vậy, Sarraut vẫn yêu cầu Charles áp lực Phủ Phụ chính giảm án cho khoảng 40 sĩ phu duy tân từ chung thân xuống còn 9 tới 13 năm tù.(78)

4. Đào Mả Vua Tự Đức:

Khoảng thời gian này, một biến cố khác chấn động dư luận toàn quốc: Ngày 17/1/1913, Khâm sứ Mahé cho khai quật một kho báu trong vòng thành Lăng vua Tự Đức (Khiêm Cung). Theo Sarraut, mãi tới ngày 4/2, khi vào Huế họp Hội Đồng chính phủ An Nam, Sarraut mới được Mahé thông báo. Ba ngày sau, 7/2, Sarraut cho lệnh lập tức ngừng việc tìm vàng và tu sửa lại Khiêm Cung. Vì đang nghỉ Tết Nguyên Đán Qứi Sửu (6/2/1913), các đại thần Việt hứa qua Giêng sẽ lấp lại các hố đào; nhưng bị chậm trễ. Hạ tuần tháng 2/1913, báo Le Courrier d’Haiphong công khai chỉ trích việc làm của Mahé. Sarraut và các quan Việt nhận được nhiều thư trách móc, nguyền rủa. Việt Nam Quang Phục Quân cũng nhân dịp “mượn tạc đạn” để bày tỏ sự bất mãn. Sarraut vội yêu cầu Mahé báo cáo mới biết việc tu sửa Lăng Tự Đức vẫn chưa hoàn tất.(79) Tại Paris, Phó bảng Trinh không thể làm ngơ. Ngày 2/4/1913, nhân dịp Roux được thăng cấp Thiếu tá, Phan Châu Trinh viết cho Roux một lá thư dài bày tỏ sự bất mãn về việc đào mả Tự Đức. Trả lời phỏng vấn của báo Le Journal ở Paris, Phan Châu Trinh tuyên bố rằng những vụ bạo động ở Đông Dương chỉ là dấu hiệu đầu tiên của chính sách cai trị sai lầm của người Pháp. Theo Phan Châu Trinh, mặc dù Sarraut đã làm được một số điều tốt, nhưng đó chỉ tựa “những cái kẹo nho nhỏ để an ủi những đứa trẻ mới bị đánh đòn.” Dù rất bất bình, và viết bài trả lời, trách móc Phó bảng Trinh vong ân, bội nghĩa, Sarraut vẫn tái cấp học bổng cho cha con ông.(80)

Mùa Thu năm 1913, Bộ Thuộc Địa và Sarraut lại thêm một lần chú ý đến Phó bảng Trinh. Từ Berlin (Germany), Cường Để đã bắt đầu tách rời khỏi ảnh hưởng Phan Bội Châu, bỏ qua Âu châu sau khi bị bắt giữ ở Hong Kong một thời gian ngắn–ủy Trương Duy Toản (1885-1957) cầm hai lá thư gửi cho Phan Châu Trinh và Sarraut. Phó bảng Trinh bèn dẫn Toản tới gặp Pierre Guesde, Phụ tá Chánh Văn Phòng Bộ Thuộc Địa. Mặc dù Phan Châu Trinh tuyên bố chưa hề đọc thư Cường Để, người Pháp vẫn nghi ngờ ông có liên hệ với tổ chức mới của Phan Bội Châu. Nhưng có lẽ vì muốn chiêu hàng Cường Để, Sarraut bỏ qua vụ này. Trương Duy Toản và một bạn đồng hành, Đỗ Văn Y (1892-1968), được cấp học bổng ở lại Pháp.(81)

5. Phan Châu Trinh Ở Tù Santé:

Năm 1914, trước hiểm họa chiến tranh ở Âu Châu, Bộ Thuộc Địa Pháp yêu cầu Sở Mật Thám theo dõi ráo riết hoạt động của nhóm Phan Văn Truờng-Phan Châu Trinh. Năm này, dù đã cùng một số thân hữu thành lập Hội Ái Quốc Đông Dương, Phan Văn Trường bị động viên, phục vụ tại Trung đoàn 102 Bộ Binh ở Chartres với cấp bậc Trung sĩ. Một số người quen biết cũng đều bị nhập ngũ. Phần Nguyễn Như Chuyên–một cựu Thông ngôn tại Trung Kỳ, được học bổng qua Paris, nhưng bỏ dở nửa chừng, xoay sang học việc buôn bán ở Le Hâvre và theo Phó bảng Trinh “làm chính trị”–cũng bị gọi về nước. Trong khi Chuyên chuẩn bị xuống tàu hồi hương, ngày 3/8/1914, Germany tuyên chiến với Pháp. Việc giao thông giữa Pháp và các thuộc địa tạm thời bị đình hoãn. Chuyên phải ở lại, chờ lệnh mới.(82)

Tháng 9/1914, Germany xua quân đánh Pháp, và chỉ bị chặn lại khi còn cách Paris 25 dặm. Lo ngại Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh có thể ngả theo phe Germany, Bộ trưởng Thuộc Địa Gaston Doumergue yêu cầu Tổng trấn Paris là Tướng Galliéni, người từng cầm quân đánh dẹp Bắc Kỳ, áp dụng biện pháp “bắt giữ phòng ngừa.” Mật thám Pháp khám xét chỗ cư ngụ của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, tịch thu tất cả giấy tờ, tài liệu. Mặc dù không đủ bằng chứng buộc tội, ngày 5/9, Galliéni vẫn quyết định câu lưu hai người. Ngày 15/9, Phó bảng Trinh bị bắt, giam tại ngục Santé chờ thụ lý. Phan Văn Trường bị dẫn giải về quân lao Paris. Hơn một tháng sau, ngày 10/10/1914, tới lượt Chuyên. Qua các cuộc tra vấn, Phan Châu Trinh khôn khéo lái tất cả những tư tưởng chống Pháp trong một số thư gửi cho Chuyên vào lập trường chung là “hợp tác chân thành với Pháp.” Thí dụ như khi bị tra vấn về câu “nếu người An Nam nổi dậy, người Pháp sẽ qua trong khoảnh khắc,” Phó bảng Trinh trả lời rằng ý ông muốn nói người Pháp “phải thay đổi chính sách tức khắc.”

Dù biết rõ lập trường chống Pháp của Phan Châu Trinh, Công tố viên không đủ bằng chứng buộc tội. Trong khi đó, từ tháng 1/1915, Roux tích cực can thiệp với người thụ lý là Đại Uý Caron. Không những chỉ lấy danh dự mình bảo đảm, Roux còn lục hồ sơ cá nhân, tìm được một lá thư của Phan Châu Trinh ngày 15/10/1913, trong đó Phó bảng Trinh tâm sự với Roux mơ ước được thấy “thi hài lính Pháp và Việt nằm bên nhau” trên chiến trường chống Germany.(83)

Giữa lúc Caron định miễn tố cho ba người, chính phủ Đông Dương điện báo là sẽ chuyển về Paris một hồ sơ đủ để kết án Phan Châu Trinh. Hồ sơ này không những chỉ tổng hợp nhận xét của các viên chức thuộc địa Đông Dương về âm mưu chống Pháp của Phan Châu Trinh, mà còn thêm chi tiết Phó bảng Trinh có liên hệ với tổ chức của Phan Bội Châu và Cường Để. Trong khi lục soát nhà một cán bộ VNQP, Cảnh sát Hồng Kông tìm được một cuốn sổ nhỏ ghi địa chỉ của Phan Châu Trinh (số 16 đường Cujas, Paris).

Ngày 8/4/1915, có lẽ bị tra tấn quá mức, Nguyễn Như Chuyên đột ngột cung khai rằng Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh có liên hệ với Cường Để, và âm mưu dựa vào Germany để lật đổ Pháp. Hơn một tuần sau, ngày 19/4, hai cựu sứ giả của Cường Để là Đỗ Văn Y và Trương Duy Toản bị bắt giữ, đưa vào Santé. May mắn, ít lâu sau, Chuyên bỗng cuồng trí, nói năng điên loạn, phải đưa vào bệnh viện điều trị. Nhờ vậy, lời khai của Chuyên mất giá trị. Hai tháng sau nữa, ngày 28/6, Công Tố viên miễn tố Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh và Nguyễn Như Chuyên. Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường đều được phóng thích.(84) Chuyên tiếp tục điều trị ở nhà thương một thời gian mới lành bệnh. Y và Toản còn bị điều tra ít lâu, rồi được phóng thích, và ép buộc hồi hương ngày 15/10/1915.

IV. SỰ SUY TÀN CỦA VƯƠNG QUYỀN:

Tháng 6/1919, giữa men say chiến thắng “Đức tặc,” các giới chức Thuộc Địa Pháp xôn xao vì một biến cố nhỏ, nhưng đáng lo ngại: Ngày 18/6/1919, báo L’Humanité (Nhân Đạo) của Đảng Xã Hội Pháp đăng tải một thỉnh nguyện thư gửi Hội Quốc Liên của “Một nhóm người An Nam yêu nước.” Bản thỉnh nguyện thư này gồm 8 điểm:

- Xin ân xá tù nhân chính trị

- Xin cải cách pháp luật để người An Nam được bảo đảm pháp định tương tự như người Âu Châu

- Tự do báo chí và tư tưởng

- Tự do lập hội và hội họp

- Tự do di trú và du lịch ra ngoại quốc

- Tự do giáo dục và đòi hỏi thành lập trường dạy nghề ở các tỉnh

- Thay đổi chế độ cai trị với sắc luật bằng chế độ pháp trị

- Được bầu một phái đoàn thường trực bên cạnh Quốc Hội Pháp.( 85)

Ít tuần sau, vào đầu tháng 7/1919, xuất hiện ở khu vực Mutualités và phố Ecoles (Quận V, Paris) một số truyền đơn có nội dung tương tự. Điểm khác biệt là trong bản truyền đơn này “Nhóm người An Nam yêu nước” được đại diện bằng “Nguyễn Ái Quốc.” Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí khẳng định rằng “dân An Nam lấy làm vinh dự” được người Pháp bảo hộ.( 86) Cùng ngày 18/6/1919, thỉnh nguyện thư trên được gởi đến các phái đoàn đồng minh đang họp ở Versailles để giải quyết số phận Germany, Hungary và Austria (Áo). Hai ngày sau, đại diện Mỹ thông báo đã nhận được, và hứa sẽ trình lên Tổng thống Woodrow Wilson.( 87)

Nhân vật Nguyễn Ái Quốc nói trên cuối cùng được mật báo Pháp khẳng định là Nguyễn Sinh Côn, tức Tất Thành (1892-1969), gốc Nghệ An là con thứ ba Phó bảng Nguyễn Sanh Huy (Sắc). Côn từng học trường Pháp - Nam Thừa Thiên, có bằng tiểu học, và từ ngày 7/8/1908 được nhận vào trường Quốc học niên khoá 1908-1909.(88) Năm 1910, khi đang ngồi Tri huyện ở Bình Định, Huy say rượu đánh chết một nông dân, nhưng được Cao Xuân Dục, Thượng thư Bộ Học, che chở nên chỉ bị cách chức, rồi lưu lạc vào Nam Kỳ. Bởi thế, Nguyễn Sinh Côn cũng bỏ học, xiêu dạt vào Nam.(89)

Tháng 7/1911, Côn (Tất Thành) rời Sài Gòn với chân phụ bếp, bồi tàu. Tới Marseille, ngày 15/9/1911, Côn làm hai lá đơn xin nhập học trường Thuộc Địa (Ecole coloniale), trung tâm huấn luyện và nuôi dưỡng những cán bộ bản xứ tương lai của Pháp. Hai đơn xin của Côn (Thành) bị bác, vì không được chính phủ Đông Dương gửi qua.(90) “Paul” Thành đành tiếp tục nghề thủy thủ, lênh đênh nay đây mai đó.(91) Thời điểm 1919-1920 mà Nguyễn Tất Thành đột ngột xuất hiện trên sân khấu chính trị Paris, nhiều biến cố đáng ghi nhận trên thế giới cũng như tại Việt Nam.

1. Trước hết, Thế Chiến Thứ I đã ngưng tiếng súng ngày 11/11/1918. Đầu năm 1919, các phe lâm chiến tụ họp ở Versailles, cách thủ đô Paris 20 cây số về hướng Tây Nam, để vẽ lại bản đồ chính trị thế giới. Chủ thuyết “Tự Trị” của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson được các nước nhược tiểu nhiệt liệt ủng hộ. Việc thành lập Hội Quốc Liên cũng tạo niềm hy vọng cho một kỷ nguyên mới.

2. Thứ hai, chủ thuyết Cộng Sản đã tìm được đất đứng ở Liên Sô Nga gần hai năm. Nguyên trước đây, Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917) liên minh với Pháp và Bri-tên để chống lại phe Đức, Áo-Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Để làm suy yếu phe Đồng Minh, Đức Hoàng Wilhem II yểm trợ cho Vladimir Ilich Ulyanov, tức “Nikolai” hay Vladimir I. Lenin (1870-1924), về nước lật đổ Nicholas II. Tháng 3/1917, rối loạn bùng nổ ở Pétrograd. Ngày 15/3/1917, quân đội ở đây quyết định ngả theo phe cách mạng. Tuy nhiên, hai chính phủ lâm thời dười quyền Hoàng Thân Georgii Lvov và Alexander Kerensky không ổn định nổi tình thế cũng như không giải quyết được tình trạng kinh tế suy thoái. Ngày 7/11, Lê-nin và Leon Trotsky lật đổ Kerensky, thiết lập chế độ Bolshevik (Bôn-Sê-Vích). Ngày này đi vào lịch sử Nga như “Cách Mạng Tháng Mười” [tính theo lịch Gregorian của Nga]. Ngày 3/3/1918, Lê-nin ký Hiệp ước Brest-Litovsk với Germany để chấm dứt chiến tranh, thuận cắt cho Germany rất nhiều đất đai. Lên án Lê-nin đã bán đứng nước Nga, phe Bảo Hoàng và quân đội nổi dậy. Nội chiến bùng nổ giữa phe Bôn-Sê-Vích và “Bạch Nga.” Lê-nin cũng bị mưu sát nhưng chỉ bị thương nặng. Cuối cùng, phe Bôn-Sê-Vích thắng thế dần, dù Đồng Minh, kể cả Mỹ và Giáo hội Vatican, yểm trợ phe Bạch Nga.

Tháng 3/1919, Lê-nin thiết lập Đệ tam Quốc Tế Cộng Sản (QTCS), quyết xuất cảng “cách mạng vô sản” Mục đích nhằm khích động các đảng Cộng Sản Âu châu nổi dậy lật đổ chính quyền tư bản, hầu giải nguy cho tình trạng bị cô lập của Nga. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của Lê-nin và các lãnh tụ QTCS vẫn là các nước Âu Châu. Trong bản “Sơ thảo về vấn đề quốc gia và thuộc địa” đưa ra để biểu quyết tại Đại hội kỳ II của QTCS vào mùa Thu 1920, Lê-nin vững tin rằng công nhân vô sản Âu Mỹ sẽ đứng lên làm cách mạng, rồi hướng dẫn các “bị khoai” (nông dân) thuộc địa. Nhưng đại diện India, M. N. Roy, cực lực chống ý kiến lấy Âu châu làm chính. Roy muốn khởi xướng cách mạng vô sản ở các thuộc địa, vì nếu bị cắt đứt khỏi những xứ này, các cường quốc thực dân sẽ suy yếu, mở ngõ cho cách mạng vô sản tại chính quốc. Lê-nin đồng ý sửa đổi vài đoạn nhỏ trong “Sơ thảo” của mình, nhưng chủ trương dành ưu tiên số 1 cho Âu Châu vẫn được Đại hội II QTCS thông qua.( 92)

Sự ra đời của “Quốc Tế Cộng Sản” và “Sơ thảo” về vấn đề thuộc địa 1920, cùng tham vọng thực dân của các cường quốc Bri-tên hay Pháp ở Trung Đông, Nhật Bản ở Á Châu, và nhất là khuynh hướng tự cô lập của Quốc hội Mỹ–biểu lộ qua việc không đồng ý gia nhập Hội Quốc Liên–khiến chủ thuyết “Tự Trị” của Wilson chìm dần vào quên lãng. Quyết định xoá bỏ những Hiệp ước bất bình đẳng với Trung Hoa của điện Krem-li, và rồi việc bành trướng ảnh hưởng của Sô viết Nga vào “người bệnh của Á Châu” này càng khiến các cường quốc tư bản quan tâm hơn về mối hiểm họa “Đỏ” Hiện tượng “Sợ Đỏ” (Red Scare) lan rộng cả tới Liên bang Mỹ–đang trên đà chuyển mình thành một đại siêu cường của khối “Dân chủ tư sản

Trong khi đó, Krem-li trở thành thánh địa của “Dân chủ vô sản” đối với những dân tộc bị các cường quốc tư bản thống trị và bóc lột. Nhiều phần tử chống đối thực dân ở Á và Phi Châu qui tụ về dưới mái Viện Công nhân Đông phương, học tập lý thuyết và phương thức cách mạng (agitprop), chờ ngày hồi hương.( 93)

3. Thứ ba, cuộc bảo hộ Đông Dương của Pháp ngày thêm vững mạnh. Cuộc chiến ở Âu Châu chỉ tạo nên được vài biến động nhỏ tại Việt Nam.

Biến cố đáng lưu ý nhất là vụ Duy Tân rời kinh đô tối ngày 3-4/5/1916, nhưng cuộc “khởi nghĩa” không lan rộng quá lãnh thổ Quảng Nam. Cuộc biểu tình của Phan Xích Long ở Sài Gòn (11/1916),(94) hay cuộc nổi dạy ở Thái Nguyên của Đội (Trịnh Văn) Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần Trung Lập từ 30/8 tới 4/9/1917 cũng đều bị Pháp dập tan nhanh chóng.( 95) Khuynh hướng “Pháp - Việt đề huề” trở thành ngôn ngữ thời đại. Sau khi nhận được bản “Pháp - Việt đề huề luận” của Phan Bội Châu (dưới bút hiệu Độc Tinh Tử), Sarraut sai người qua Hàng Châu đề nghị Cử nhân Châu ngừng hoạt động chống Pháp ở hải ngoại, hoặc về nước tham chính. Nhưng lập trường đề huề của hai bên khác biệt nhau khá xa. Phan Bội Châu bỏ Hàng Châu lên Bắc Kinh, rồi qua Nhật. Trong vòng 4 năm kế tiếp, tổ chức VNQPH chẳng còn hoạt động nào đáng kể, ngoài việc Cường Để sai Lê Văn Phan bắn chết Phan Bá Ngọc vì tình nghi Ngọc đã mật báo cho Pháp bắt Mai Lão Bạng, Phạm Cao Đại và Nguyễn Đình Kiên.( 96)

4. Thứ tư, lần đầu tiên trong lịch sử Việt, khoảng 100,000 lính thợ (ONS) được đưa qua Pháp giúp mẫu quốc đánh đuổi Đức tặc. Số người “Tây du” khổng lồ này tạo nên một không khí sinh hoạt chính trị mới ở Paris. Chiến thắng của phe Đồng Minh khiến đại đa số những chiến binh trên ngưỡng mộ và qui phục nước Pháp. Nhiều người Việt có công dân Pháp như Đỗ Hữu Vị, Lê Quang Trinh, Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Văn Xuân v.. v... tham chiến trong hàng ngũ Pháp, đặt xuống những viên đá nền tảng cho sự nghiệp chính trị của giai tầng “Tây học” mới. Bởi thế, lập trường “thờ người Pháp như bậc thầy để cầu tiến bộ” và đả phá chế độ quân chủ của Phan Châu Trinh được họ ủng hộ.

Tuy nhiên, tại Pháp, vì bận mưu sinh và sức khoẻ yếu kém, Phó bảng Trinh chỉ còn là một chiếc bóng mờ, được kính trọng nhưng không lập được một tổ chức nào chặt chẽ. Bạn đồng chí, và đồng tù là Phan Văn Trường thì bận rộn mưu sinh ở vùng đất mới chiếm đóng được của Germany. Tổ chức Hội Yêu Nước Đông Dương của Phan Văn Trường không còn sinh hoạt thường trực nữa. Một số sinh viên trẻ, từng du học Pháp đã lâu như Nguyễn Thế Truyền (1898-1969), hay mới chân ướt chân ráo tới Paris như Nguyễn An Ninh (1900-1943), vẫn còn liên lạc với Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, nhưng ngả dần về phe Xã Hội Pháp, một Đảng Xã Hội ngày một nghiêng về phía Đệ Tam QTCS vì được tăng cường các cựu chiến binh chống đối cuộc chém giết kinh khiếp, với hàng chục triệu người tử trận, chỉ vì quyền lợi tư bản và tài phiệt.

Trở lại Paris giữa bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc (Côn) gặp được cơ hội ngàn vàng để bước lên sân khấu chính trị. Giao tình với “Hy Mã Nghị Bá Đại Nhân” và “ông Trạng [Sư Trường]” giúp Thành có chỗ cư trú, và mở được những liên hệ với các chính khách cấp tiến, thuộc Hội Bảo Vệ Nhân và Dân Quyền hay Đảng Xã Hội. Đó là chưa nói đến khả năng Pháp ngữ của “ông Trạng,” cùng những người bạn trẻ khác như Nguyễn Thế Truyền v.. v... giúp khai sinh ra bí danh “Nguyễn Ái Quốc” sinh ngày “15/1/1894” Mặt khác, sau 8 năm trôi nổi khắp trời xa, bến lạ, Nguyễn Sinh Côn đã tôi luyện được khả năng sống còn. Cậu “ấm” con quan huyện còn có một thứ căn cước mới ”dân lao động” chính qui, bản thân chưa từng “phục vụ giặc Pháp” Nói cách khác, Côn (Quốc) bỗng xuất hiện như một nhân vật lý tưởng nhất để các lãnh tụ Cộng Sản Pháp chiêu mộ – Gốc “An-na-mít” dân thuộc địa, đang ở tuổi tráng niên, Con người “Lao động” “Vô Sản” nhưng không mù chữ mà còn “tiểu trí thức

V. THẤT ĐIỀU THƯ CỦA PHAN CHÂU TRINH (1922):

Vì đã ủy thác cho người Pháp lo mọi việc quốc sự, Khải Định chỉ còn một mục đích để theo đuổi: Giữ vững ngai vàng, và tìm cách truyền lại thiên mệnh Đại Pháp cho người con độc nhất của mình là Vĩnh Thụy. Ngày 21/2/1922, do đề nghị của Pasquier, Toàn quyền Long đồng ý cho Vĩnh Thụy làm Đông cung Thái tử.( 97)

A. CHUYẾN ĐI PHÁP DỰ ĐẤU XẢO:

Năm 1922, Pháp tổ chức một Hội chợ triển lãm toàn đế quốc Pháp ở Marseille, với mục đích lôi cuốn những tài phiệt đầu tư vào các thuộc địa. Nhân dịp này, Khải Định muốn qua Pháp, đồng thời đưa Thái tử Vĩnh Thụy sang mẫu quốc trọ học tại tư gia Charles, mới về hưu. Phái đoàn của Khải Định khá đông. Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ, được tháp tùng. Ngoài ra còn một số nhân sĩ miền Bắc như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, v.. v...

B. THẤT ĐIỀU THƯ:

Chuyến du hành của Khải Định làm bùng lên một ngọn lửa tranh đấu mới trong các cộng đồng Việt kiều tại Pháp. Người hoạt động hăng say nhất là Phan Châu Trinh. Từ mùa Hè 1920, vì lý do sức khoẻ, Phó bảng Trinh đã bỏ nghề rửa ảnh, rời Pons về Paris. Phan Châu Trinh tạm trú ở số 6 Villa des Gobelins một thời gian với Nguyễn Ái Quấc, rồi dọn về số 21 đường Pernaty cùng Lê Văn Xao. Hạ tuần tháng 10/1921 sau khi biết tin cái chết của người con trai độc nhất ở Sơn Tây, Phó bảng Trinh bỏ Paris xuống Marseille. Nhưng chưa đầy hai tháng sau, vì sức khỏe yếu kém, ngày 6/12, phải trở lại Paris. Nhờ sự giúp đỡ của Babut và Pierre Guesde, Phan Châu Trinh lại xuống Marseille làm việc cho ban phim ảnh của Hội Chợ Triển Lãm. Chẳng hiểu vì sót sa với thân phận một đại khoa, sau hơn 10 năm lưu lạc mẫu quốc mà chỉ học được một nghề rửa ảnh, hay kinh nghiệm ở Hội chợ Marseille cho ông cơ hội sống thực để suy nghĩ về chuyến đi của Khải Định, ngày 15/7/1922, Phan Châu Trinh hoàn tất bản “Thất Điều Thư” bằng chữ Nho, hạch ra 7 trọng tội của vua.( 98)

a. Tội thứ nhất là “tôn nhảm quyền vua”

Theo Phan Châu Trinh, Khải Định bắt dân chúng phải tôn xưng mình làm “Thiên tử” nhưng thực chất thì “trên vua làm tôi đòi, dưới bầy tôi nịnh hót”, ”không những không thể tôn quân quyền, mà ngôi vua cũng phải lập tức truất bỏ” Phan Châu Trinh nhấn mạnh: "Nay bệ hạ thì một điều hay chưa làm mà nhiều điều ác đã rành rành, đã chạy vạy trăm cách để trộm được ngôi chí tôn, nói như thần thánh làm như quỉ ranh, ở ngôi bảy năm dân oán tức đến đau ruột. Huống chi lại còn mượn oai cường quyền, ép quốc dân tôn mình nữa! Dựa theo luật Âu, Á xưa nay dùng đối với vua chúa, nếu không giết cũng đuổi, há được kêu oan."

b. Tội thứ hai là “Làm lầm thưởng phạt”

Theo Phó bảng Trinh, từ ngày lên ngôi, Khải Định chỉ thưởng phạt theo sở thích. Lại sử dụng hàng chục tên mật thám đi dò la trong dân chúng để trừng trị những người chê trách mình. Phan Châu Trinh nhắc lại tích cũ, là ông vua vô đạo Lệ Vương của nhà Chu đặt ra “giám tu” để định bịt miệng người, nhưng cuối cùng cũng bị dân giết.

c. Tội thứ ba là “Sùng bái sự lễ quì”

Theo Phan Châu Trinh, hủ tục này không những man rợ, mà còn khinh bỉ quan dân, khiến dư luận thế giới khinh bỉ.

d. Tội thứ tư là “Xa xỉ làm xằng”

Phan Châu Trinh nhận xét: "Bệ hạ làm một ông vua Bảo hộ, ngôi thứ ở dưới Tổng Thống và Toàn Quyền Đại Thần [Pháp], tên và hiệu chỉ đặt trong 12 tỉnh [Trung Kỳ] công nghiệp chưa hơn gì một đứa thất phu, mà dám đem mình ví với ngôi Đế Thiên! Làm vậy cũng như ăn trộm, ăn cướp.... Trong thư Bệ hạ gửi Đại thần Bộ Thuộc Địa có viết câu “mình là cha mẹ của dân.” Nước ta xưa nay vốn trọng gia đình luân lý, sao lại có cái thứ cha mẹ tàn nhẫn, bất lương như vậy. Ôi! Nên đổi gọi tên là “giặc của dân” thì mới gần sự thật"

e. Tội thứ năm là “phục sức sai chế độ”

Theo Phan Châu Trinh, Khải Định tự chế ra quân phục ghép gù vai của Âu châu vào chiến bào kiểu cũ, chen kết thêm đá quí, vàng, bạc, Âu không ra Âu, Á không ra Á. Lại còn thêu rồng, thêu phượng trên nón. Hành động này “làm tổn hại bang giao, sỉ nhục quốc thể. Theo luật thì nên lấy phép nước gia hình cho đáng tội

f. Tội thứ sáu của Khải Định

Theo Phó bảng Trinh, là “chính sự bê trễ chẳng chút lưu tâm,nhân dân đói rét không hề thăm hỏi” đứng đầu tội danh “ăn chơi làm gương xấu hại dân

g. Tội thứ bảy là âm mưu ám muội trong chuyến Pháp du

Theo Phan Châu Trinh, ngoài việc đi du hí ở Pháp, âm mưu của Khải Định là mang theo tiền vơ vét được bấy lâu để mua chuộc thế lực ủng hộ quân chủ ở Pháp hầu duy trì ngai vàng cho cá nhân mình và con trai là Vĩnh Thụy. Sau khi đàn hịch 7 “trọng tội” trên, Phó bảng Trinh xác định “tuyên chiến” với Khải Định và chế độ quân chủ. Vì đã chọn thế đối nghịch, nên ở đầu thư, Phan Châu Trinh chỉ viết “Thư của người dân Việt Nam, Phan Châu Trinh, ‘gửi’ vua hiện nay, Khải Định” mà không viết là “dâng” thư. Hai tiếng “Bệ Hạ” dùng để gọi Khải Định chỉ vì cho tiện xưng hô mà không phải tâng bốc. Ngoài ra, suốt lá thư, Phó bảng Trinh không kiêng kÿ tên húy Khải Định hay bất cứ vua nhà Nguyễn nào. Cũng vẫn theo Phan Châu Trinh, ngoài bản chữ Hán gửi cho Khải Định, còn bản dịch qua tiếng Pháp để đăng báo cùng phân phối cho dân chúng Marseille. Tuy nhiên, bản dịch Thất Điều Thư bằng tiếng Pháp không còn được đón tiếp nồng hậu như ít năm trước. Mãi tới ngày 10/8/1922, báo L’Humanité mới kêu gọi Khải Định nên về nước, và nhắc sơ đến “Thất Điều Thư” của Phan Châu Trinh.(99)

Theo tài liệu Cộng Sản, Ulysse Leriche – người phụ trách mục “Thuộc Địa” của báo L’Humanité, cũng cựu chủ bút tờ Le Mékong ở Sài Gòn trong thập niên 1900, với lập trường chống Hội truyền giáo và Giáo hội viết thư giải thích với Phan Châu Trinh rằng nội dung Thất điều thư không gắn bó với phong trào Quốc Tế Cộng Sản và ban biên tập L’Humanité tin rằng rất nhiều đồng hương của Phan Châu Trinh không cùng ý kiến.( 100) Trong số những người không đồng ý, dĩ nhiên, có Nguyễn Ái Quốc lúc này đã gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, hoạt động trong Công đoàn liên thuộc địa (L’Union intercoloniale), trực thuộc Ủy ban Nghiên cứu Thuộc địa (Comité d’études coloniales), do Henri Sarotte làm Bí thư. Từ tháng 6/1922, Quấc còn được phong làm Phó Bí thư, đặc trách việc in và phát hành báo Le Paria (Lao Động Báo).( 101) Nhiều bài viết công kích Khải Định, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, được đăng trên L’Humanité vào dịp này. Quan trọng hơn nữa, Quốc đang chọn một con đường khác biệt với tất cả những người quen biết đó là tìm đường qua Mat-scơ-va.

C. SỰ BẾ TẮC CỦA LẬP TRƯỜNG HỢP TÁC:

Đầu thập niên 1920, một số nhà tranh đấu kháng Pháp bắt đầu thấy sự bế tắc của những cuộc vận động chính trị tại mẫu quốc. Thuộc địa là huyết mạch của mẫu quốc, và vài ba chính khách, dân biểu hay văn sĩ, ký giả tả phái chưa đủ thay đổi cả một trào lưu thực dân đang ở mức cao nhất của cơn thủy triều. Nuớc Pháp có nhiều điều hay, đẹp như khẩu hiệu Tự Do, Bình Đẳng, và Thân hữu [Bác Ái]; một thể chế dân chủ hiến định hay sự phân biệt giữa nhà nước và giáo hội nhưng không phải tất cả những cái hay đẹp của mẫu quốc đều có thể xuất cảng qua các thuộc địa. Những con “cá mập” (réquins) mà những người nhiệt huyết như Nguyễn Thế Truyền, Dương Văn Giáo đả kích chỉ là những con “cá mập” nhỏ. Nguồn gốc sản xuất ra giống cá mập đó, tức chủ nghĩa thực dân, nằm ngay tại nước Pháp, sự giàu sang và văn minh của nước Pháp. Thêm nữa, dù được tương đối tự do hoạt động, những người yêu nước Việt bị vây bọc bởi những “liên đoàn danh dự nhặng báo” thường được ngụy trang như những đồng chí thân thiết nhất, nhiệt thành nhất. Bên cạnh Nguyễn Ái Quốc, có đồng chí “Quản Lâm” với bí danh “M. Jean”. Bên cạnh những Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu có “Thomas” tức Đặng Đình Thọ và anh ruột là Đặng Văn Thu.( 102) Hơn nữa, nửa vòng địa cầu cách biệt khiến những tranh đấu ở mẫu quốc không gây được những kết quả hữu hiệu. Bởi thế, nhiều người muốn về nước hay qua Trung Hoa hoạt động.

D. SỰ THĂNG TIẾN CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN:

Từ đầu thập niên 1920, các viên chức thuộc địa cũng bắt đầu quan tâm đến Quốc Tế Cộng Sản (QTCS), thế lực tử thù của các cường quốc thực dân và Giáo hội Vatican. Mối đe dọa của Cộng Sản càng nguy hiểm hơn khi chính Pháp cũng có một Đảng Cộng Sản, qui tụ nhiều dân bản xứ thuộc địa. Sự hình thành của Công Đoàn Liên Thuộc Địa trong Ban chấp hành Đảng Cộng Sản Pháp từ tháng 7/1921 khiến chính phủ Pháp phải lo phương sách giữ các thuộc địa thoát khỏi ảnh hưởng QTCS. Mối lo ngại của Pháp trở thành sự thực vào mùa Hè 1923. Trong khi tại Paris, một số khuôn mặt trẻ gia nhập Công đoàn Liên thuộc địa, đặc biệt là Nguyễn Thế Truyền, tháng 6/1923, QTCS dàn xếp cho Nguyễn Ái Quốc bí mật qua Nga huấn luyện nghệ thuật làm cách mạng. Mùa Thu 1924, Mat-scơ-va gửi Quốc về Quảng Châu, dưới danh nghĩa thư ký kiêm thông dịch viên của Mikhail Borodin, đặc sứ Nga bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên, với hai bí danh mới là Lý Thụy và Linov. Mối “hồng họa” này là một đe dọa đáng sợ cho chế độ Bảo hộ Pháp, có phần nguy hại hơn cả hai mối “hoàng họa” Trung Hoa và Nhật Bản.

VI. NHỮNG BIẾN ĐỘNG NĂM 1925-1926:

Dân biểu Alexandre Varenne được chính thức thay Martial Merlin ngày 28/7/1925, nhưng 4 tháng sau, ngày 28/11/1925, mới đến Sài Gòn. Là một dân biểu Xã Hội, trước khi Varenne tới Đông Dương, danh tiếng đã vang dội khắp ba kỳ. Người ta trông đợi Varenne sẽ mang lại những cải cách chính trị và xã hội quan trọng đáp ứng với sự mong mỏi của giới trung lưu Việt, đại diện bằng các thành phần có học thức cao nhất trong nước, như một qui chế rộng rãi hơn cho ba xứ Nam Kỳ, Bắc Kỳ và An Nam. Tuy nhiên chủ trương “tiến bộ” (libéralisme) dựa trên nguyên tắc cộng hòa của Varenne có những giới hạn tiên thiên của quyền lợi và uy thế Pháp tại Đông Dương. Vấn đề sôi bỏng thời sự nhất lúc Varenne đặt chân tới Đông Dương là vụ “bắt cóc” Phan Bội Châu ở Thượng Hải mang về Hà Nội, và bản án chung thân mà Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ tuyên đọc năm ngày trước.

A. VỤ ÁN PHAN BỘI CHÂU:

Tại Trung Hoa, từ sau Thế chiến thứ I tổ chức của Phan Bội Châu suy yếu dần. Cử nhân Châu phải sống bằng nghề viết báo ở Hàng Châu. Khoảng cuối năm 1920, đầu năm 1921, Phan Bội Châu tiếp xúc với đặc sứ Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] là Grigorij Voitinsky và một thuộc viên của Đại sứ Karakhan ở Bắc Kinh. Vì không biết tiếng Nga hay Anh, đường giây bị gián đoạn.(103) Mùa Thu 1924, Phan Bội Châu về Quảng Châu tái tổ chức Quang Phục Hội. Dịp này, Cử nhân Châu và Nguyễn Hải Thần được Lý Tế Thâm đồng ý nhận một số thanh niên Việt vào trường Võ bị Hoàng Phố. Vì muốn được dựa vào Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu đổi tên Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ). Cách tổ chức VNQDĐ dựa theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Sau đó Cử nhân Châu ủy cho Hồ Bá Cự (Hồ Tùng Mậu) tìm cách đưa chương trình và đảng cương về nội địa. Có những dấu hiệu cho thấy VNQDĐ của Phan Bội Châu ít nhiều liên hệ với nhóm Tâm Tâm Xã, tức một nhóm thanh niên trẻ mới từ trong nước ra. Nhóm này gây được tên tuổi qua vụ ám sát Phan Bá Ngọc tại Hàng Châu vào lễ Nguyên Tiêu 1923, và vụ mưu sát Toàn quyền Merlin tại Sa Diện, Quảng Châu, tối ngày 18/6/1924.(104)

Tuy nhiên, từ ngày Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) xuất hiện ở Quảng Châu (11/11/1924) nhóm Tâm Tâm Xã ngả về phía Cộng Sản. Tháng 6/1925, Quốc chính thức thành lập Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Hội [VNTNKMH], một tổ chức liên hệ với Thanh Niên QTCS. Đa số đảng viên Hội Thanh Niên này đều là cán bộ cũ của Phan Bội Châu, kể cả con rể Cử nhân Châu là Vương Thúc Oánh. Ít ngày sau, trưa 30/6/1925, Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải khi đang trên đường xuống Quảng Châu dự lễ tưởng niệm Phạm Hồng Thái. Vì thế đã có nghi án chính Nguyễn Ái Quốc chủ mưu việc bán Phan Bội Châu cho Mật thám Pháp.(105) Dù Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ hay Nguyễn Thượng Huyền là thủ phạm “bán” Phan Bội Châu, biến cố này vẫn mang lại những hậu quả vượt ngoài mức dự liệu của người hoặc nhóm chủ mưu. Từ khắp ba kỳ, mà không giới hạn trong một xứ hay một giai tầng xã hội nào, phong trào tranh đấu xin ân xá cho Phan Bội Châu đột ngột dâng lên như thủy triều. Công điện và thỉnh nguyện thư xin ân xá được gửi đi khắp nơi. Tại Pháp, Nguyễn Thế Truyền vận động Đảng Cộng Sản Pháp cùng Hội Nhân và Dân Quyền mở một chiến dịch rầm rộ, lôi kéo được sự ủng hộ của rất nhiều nhân sĩ, dẫn đến việc thành lập Việt Nam Độc Lập Đảng sau này.(106)

Trong nước, nhiều tổ chức, hội đoàn được khai sinh trong khí thế tranh đấu, như Phục Việt ở Hà Nội, Đảng Thanh Niên của Trần Huy Liệu (Nam Kiều, 1901-1969) ở Sài Gòn, hay nhóm “Jeune Annam” của Phạm Quỳnh, Trần Đình Nam v.. v...(107) Phiên toà xử Phan Bội Châu tại Hà Nội ngày 23/11/1925 càng gây tiếng vang rộng lớn hơn. Chính sách chia để trị và ranh giới hành chính Bắc, Trung, Nam trong nhất thời bị xoá bỏ. Hàng trăm, hàng ngàn người Việt–đặc biệt là các thị dân, học sinh, sinh viên–can đảm đứng lên bênh vực một nhà ái quốc Việt. Khi Hội đồng đề hình Bắc Kỳ của Jules Joseph Bride kết án Phan Bội Châu khổ sai chung thân, phong trào tranh đấu xin ân xá bộc phát mạnh mẽ. Ngay những nhân vật bảo thủ cũng kêu gọi khoan hồng để tránh biến Phan Bội Châu thành một “thánh tử đạo” (martyr).(108) Ngày 9/12/1925, Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ triệu tập một phiên họp đặc biệt dưới sự chủ tọa của tân Thống sứ Eugene L.J. René Robin (12/1925-11/1930) để tái xét trường hợp Phan Bội Châu. Hoàng Trọng Phu và Nguyễn Đình Quỳ (thay thế Trần Văn Thông, cáo bệnh) là hai ủy viên người Việt. Bản án chung thân khổ sai của Phan Bội Châu được giảm còn án treo.(109). Ngày 21/12, Khâm sứ Pasquier từ Huế ra Hà Nội, đại diện Toàn quyền Varenne, vào gặp riêng Cử nhân Châu tại văn phòng chúa ngục một tiếng đồng hồ, từ 7 tới 8 giờ tối, để dò ý tứ. Hai ngày sau, Varenne ký nghị định ân xá có điều kiện, chỉ định cư trú Phan Bội Châu ở Huế, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Léon Sogny.(110) Từ đó cho tới ngày Phan Bội Châu từ trần vào cuối tháng 10/1940, ngoại trừ vài trường hợp Cử nhân Châu định rời Huế ra Nghệ Tĩnh, khiến có lần Khâm sứ Aristide Le Fol (1/1929-6/1931) đề nghị trục xuất khỏi Trung Kỳ suốt đời, Phan Bội Châu sống ẩn dật bên lề lịch sử. Ngọn đuốc tranh đấu của thế hệ Phan Bội Châu đã trao xuống tay thế hệ trẻ trung hơn.(111)

B. PHAN CHÂU TRINH VỀ NƯỚC:

Sau ngày Nguyễn Ái Quốc rời Paris vào tháng 6/1923, và rồi Phan Văn Trường cũng hồi hương vào cuối năm (22/12/1923), sức khoẻ Phan Châu Trinh thêm suy yếu. Như ngọn đèn bùng lên lần chót, Phó bảng Trinh hoạt động tích cực hơn. Đầu năm 1924, Phan Châu Trinh nộp đơn xin vào Pháp tịch. Trong một buổi họp mặt của Việt kiều, Phan Châu Trinh tuyên bố sẽ không về nước nếu đơn xin nhập tịch bị từ chối.(112) Tháng 3/1924, bệnh phổi tái phát, Phan Châu Trinh phải vào điều trị tại nhà thương Saint Antoine. Xuất viện ngày 23/3, không tiền bạc, Phan Châu Trinh đến tá túc với Lê Văn Thuyết tại số 9 Impasse Compoint. Quan điểm chính trị của Phó bảng Trinh vẫn chỉ là chống đối chế độ quân chủ, hợp tác tinh thành với Pháp. Tuy nhiên, đôi khi Phan Châu Trinh cùng Nguyễn Thế Truyền tham dự buổi họp của Công Đoàn Liên Thuộc Địa. Ông cũng tiếp xúc với nhóm Dương Văn Giáo, Trần Văn Khá v.. v... của Đảng Lập Hiến. Đầu tháng 2/1925, Phó bảng Trinh và Trần Văn Khá thành lập Hội Liên Hiệp Pháp - Đông Dương, và giữ chức Chủ tịch, Khá làm Tổng thư ký.(113)

Việc xin nhập tịch của Phan Châu Trinh gặp nhiều trở ngại. Một trong những lý do chính là viên chức thuộc địa Pháp coi việc nhập tịch như đặc ân dành cho những người trung thành với Pháp, mà không phải thứ khiên giáp để đấu tranh chính trị. Giám đốc Sở Kiểm Soát và Trợ Giúp Binh Sĩ Đông Dương (Service de contrôle et d’assistance des troupes indochinoises, CAI) đã đưa ra ý kiến chung như sau: "Một việc khó thể chối cãi là phần đông những thanh niên An-Nam [xin nhập Pháp tịch] ao ước được điều khiển việc quốc sự mà chẳng cần sự trợ giúp của người Pháp. Mới lĩnh hội được một tí kiến thức khoa học, họ ngỡ tưởng đã sở đắc tất cả, và những mảnh bằng của họ, thường được ban phát do sự khoan hồng tối đa của ban giám khảo, đã đủ mở ra cho họ tất cả những cánh cửa, và họ đủ sức thay thế những kinh nghiệm [cần thiết]. Ở tuổi 25, họ đã tự coi mình có khả năng lãnh đạo đồng bào họ về hướng định mệnh lịch sử.( 114)". Riêng trường hợp Phan Châu Trinh, viên chức trên nhấn mạnh: "Phan Châu Trinh đã sai lầm khi nghĩ rằng tại quê hương ông có những người đầy đủ khả năng như quốc gia chúng ta. Quan niệm này cho phép chúng ta nghĩ rằng suốt thời gian dài ở Pháp, Phan Châu Trinh chẳng học, chẳng thấy, chẳng hiểu gì–hoặc chẳng muốn hiểu hay học–vì vẫn giữ khư khư cái tinh thần nho sĩ cổ thời An Nam, với niềm tin rằng khoa học chỉ gợi hứng, và họ là những sinh vật thượng đẳng, siêu vượt trên toàn nhân loại.( 115)"

Tới tháng 12/1924, đơn xin nhập tịch của Phan Châu Trinh vẫn chưa có kết quả. Ngày 16/12, Phan Châu Trinh đích thân nhờ đến Dân biểu Marius Moutet–người từng giúp Phó bảng Trinh và Tiến sĩ Phan Văn Trường được tự do năm 1915.(116) Ngày 29/5/1925, Phan Châu Trinh cùng Nguyễn An Ninh xuống tàu Fontainebleau ở Marseille, và đặt chân tới Sài Gòn ngày 24/6. Được giới báo chí, thanh niên và trí thức nồng nhiệt đón tiếp, Phan Châu Trinh tuyên bố có ý định về Tourane hay ra Hà Nội làm báo. Ít lâu sau, khi biết tin Phan Bội Châu bị bắt, dẫn giải về Hà Nội, Phan Châu Trinh định ra thăm. Cuối cùng, Phó bảng Trinh bỏ ý định này sau buổi gặp mặt với Xử lý thường vụ Toàn quyền Maurice Monguillot ngày 16/8/1925.(117) Phan Châu Trinh dành nhiều thì giờ tiếp xúc mọi giới. Với giới trẻ, ông luôn thúc dục họ phải hành động. Cuối năm 1925, giữa lúc cao trào tranh đấu xin ân xá cho Phan Bội Châu rầm rộ khắp ba kỳ, Phan Châu Trinh đăng đàn diễn thuyết hai lần. Đề tài mà ông chọn là “Luân lý và đạo đức Đông - Tây,” cùng “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa” Những ý tưởng trong hai bài này chẳng có gì mới lạ, chỉ tổng hợp những điều đã viết và nói đó đây. Nhưng sự hiện diện của Phan Châu Trinh giữa không khí đấu tranh xin ân xá cho Phan Bội Châu cùng những đột xuất ở Huế, tự nó đã tạo được hứng khởi và xúc động mạnh trong giới trí thức và hoạt động chính trị hay cách mạng.

C. CÁI CHẾT CỦA KHẢI ĐỊNH:

Giữa không khí sôi động của sinh hoạt chính trị ba miền, sáng ngày 6/11/1925, sau một thời gian đau ốm khá dài từ ngày Pháp du trở về, Khải Định chết vì bệnh lao phổi và lao tủy sống (tuberculose pulmonaire ouverte et tuberculose vertébrale).(118) Trước phong trào chống đối chế độ quân chủ, cổ võ thể chế Cộng Hòa, vua đích thân viết thư riêng cho Pasquier cùng Nguyễn Hữu Bài để gửi gấm Đông cung Vĩnh Thụy, dự phòng các biện pháp và việc phân chia tài sản trong trường hợp Vĩnh Thụy không được thừa kế “.”(119) Trong hai di chúc bằng Hán tự và Pháp ngữ, Khải Định cũng tha thiết mong muốn Vĩnh Thụy được lên ngôi.(120)

Ngày 1/11/1925, khi bệnh tình đã nghiêm trọng, trước sự hiện diện của các Hoàng Thái hậu, đại diện Tôn Nhơn Phủ và các Thượng thư–Khải Định còn công khai ủy thác mọi việc vào tay Pasquier.(121) Vì e ngại tham vọng quyền lực của một số phần tử trong Hoàng tộc, Pasquier đề nghị và ngày 8/11/1925, XLTV Toàn quyền Monguillot chính thức ra tuyên cáo công nhận Vĩnh Thụy làm tự quân. Tuy nhiên, mãi tới tháng 1/1926, Vĩnh Thụy mới từ Pháp về tới Huế làm lễ đăng quang, lấy niên hiệu là Bảo Đại.(122) Sau đó, ấu vương trở lại Pháp. Việc cai trị An Nam từ nay do chính Khâm sứ Huế điều hành, với sự tiếp sức của Cơ Mật Viện, do Nguyễn Hữu Bài cầm đầu.

D. QUI ƯỚC 6/11/1925:

Ngay trong ngày 6/11, khi thi hài Khải Định chưa kịp lạnh, Monguillot và Cơ Mật Viện ký một qui ước (convention) cắt nhượng hết quyền lực còn sót lại của vua Nguyễn. Từ nay, vua chỉ còn nhiệm vụ tế trời đất hay ký sắc phong thần hoàng cho các thôn xã. Việc cai trị đều ủy cho Cơ Mật viện, do Khâm sứ Pháp chủ tọa.(123)

Quyết định này, nói theo các kế hoạch gia và chính trị gia Pháp, là thiết lập một nền Quân chủ Lập hiến, nhưng đồng thời hợp thức hoá chế độ trực trị ở An Nam. Nhưng theo Pasquier, đây chỉ là một phương tiện nhằm ngăn chặn những âm mưu khuynh đảo triều đình của các phe nhóm tại Huế, như nhóm Bửu Trác (em Thành Thái), và ngay cả Hoàng Quí Phi của Khải Định, con gái Nguyễn Hữu Độ, người nuôi tham vọng làm Nữ Phụ chính. Pasquier đã trình kế hoạch này lên Toàn quyền Maurice Long từ ngày 7/1/1923, và được chấp thuận. Ngày 20/3/1925, khi sức khoẻ Khải Định bị suy giảm, Toàn quyền Merlin viết thư tham khảo Pasquier về vấn đề này, và ngày 6/4/1925, Merlin cũng tán thành. Tân Toàn quyền Alexandre Varenne, đến Đông Dương ngày 28/11/1925, dĩ nhiên cũng chấp thuận, coi qui ước trên thuần túy như một biện pháp hành chính nội bộ (une acte d’administration intérieure).(124)

Thoạt tiên, Pasquier định đặt một Phủ Phụ chính, nhưng Varenne không đồng ý. Tôn Thất Hân, một người Hoàng tộc, đã về hưu từ năm 1923, được chọn làm Phụ chính thân thần. Nguyễn Hữu Bài nắm Bộ Lại kiêm Cơ Mật viện trưởng (Tổng lý Nội các). Bộ Binh và Học lại tách ra, sát nhập vào các Bộ khác. Bộ Học sát nhập với Bộ Lễ, do Hồ Đắc Trung cai quản. Bộ Binh, gom với Bộ Hộ, được giao cho Phạm Văn Thụ. Võ Liêm vẫn nắm bộ Công, và Trần Đình Bách [Bá], bộ Hình. Thực tế, cái Nội các do Bài cầm đầu chẳng là gì khác hơn một “tiểu nha môn” của Tòa Khâm sứ Huế.(125)

Cái chết của Khải Định và lễ đăng quang của Bảo Đại hầu như chẳng gây được tiếng vang đáng kể nào. Qui ước 6/11/1925–tờ khế ước cắt nhượng hết quyền hành của vua Nguyễn–cũng chẳng tạo một phản ứng. Một trong những lý do là Hội Truyền giáo–với những cơ quan truyền thông trong tay–đã tạm hài lòng với sự thăng tiến của “Hiệp sĩ Vatican” Bài lên chức Tể tướng tại Huế. Chỉ có nhóm Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh biểu lộ sự bất mãn trên tờ La Cloche Fêlée (Chuông Rạn) về việc “thằng” Pasquier quyết duy trì một “le roi bé con” (Bảo Đại) để lộng hành.(126)

Nhưng sự mỉa mai của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường mang quan điểm Cộng Hòa và không một lý thuyết gia Bảo hoàng nào lên tiếng bảo vệ vương quyền, dẫu chỉ thứ vương quyền biểu kiến. Nguyễn Hữu Bài cũng chẳng gặp phản ứng nào giống như Trương Như Cương cùng các đại thần của Cơ Mật Viện 18 năm trước. Dư luận tảng lờ việc XLTV Monguillot cắt ngắn thời gian treo cờ rủ để tang Khải Định, hầu chào mừng Varenne và lễ đăng quang của tự quân. Đây là một khúc quanh và trắc nghiệm hệ trọng, báo hiệu vương quyền nhà Nguyễn dưới Thiên mệnh Đại Pháp đã mất gần hết sự khả kính. Hơn nữa, giới quan lại cũng như “tân sĩ phu” chỉ còn biết đến người Pháp, và có khuynh hướng không đánh giá cao giới quan lại bản xứ. Các quan lại chỉ cốt sao cho được lòng những viên chức Bảo hộ Pháp, đặc biệt là các Công sứ, Khâm sứ hay Thống sứ, hơn là triều đình Huế dưới sự điều hành chuyên chính Ki-tô và tham nhũng đặc thù của Nguyễn Hữu Bài.(127)

E. QUỐC TÁNG PHAN CHÂU TRINH:

Tháng 3/1926, bệnh tình Phan Châu Trinh ngày một trầm trọng. Ngày 24/3, Phó bảng Trinh từ trần. Khí thế tranh đấu trong thời gian đòi ân xá Phan Bội Châu lại bùng dạy khắp ba kỳ. Ngày 4/4/1926 được chọn làm “quốc táng” cho nhà chí sĩ bất hạnh. Nhiều tiệm buôn đóng cửa, nhân công nghỉ làm việc, học sinh bãi khoá để tham dự đám tang hay tưởng niệm. Tại Sài Gòn, tang lễ qui tụ đủ mọi giới. Hầu hết “nhân sĩ” đương thời từ nhóm Lập Hiến, đại diện bằng Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Thinh, tới giới sĩ phu Duy Tân như Huỳnh Thúc Kháng, đều có mặt, đọc diễn văn phúng điếu. Học sinh kêu gọi bãi khoá (nghỉ học) để làm lễ tưởng niệm.(128)

Không muốn dân Việt, đặc biệt là giới thanh niên học sinh, bày tỏ lòng kính trọng với Phan Châu Trinh, các viên chức Pháp tìm đủ cách ngăn chặn. Nhân viên Mật thám bám sát những người đi vận động bãi thị. Học sinh các trường công được khuyến cáo không nên tham gia bãi khoá. Nhưng nỗ lực của người Pháp đều thất bại. Quốc táng dành cho Phó bảng Trinh, cùng dư âm cuộc tranh đấu xin ân xá cho Phan Bội Châu ít tháng trước chỉ là cái cớ cho tinh thần quốc gia mới biểu lộ. Quyết định ngăn chặn việc tổ chức lễ tang Cử nhân Lương Văn Can ít tháng sau, bằng biện pháp mạnh, chỉ kích thích thêm tinh thần bạo động.(129) Giống như khối nham thạch của một ngọn núi lửa đang hoạt động chỉ chờ những kẽ nứt của mặt địa cầu để trào lên, trước khi làm bùng nổ tan tành những khối đá ngăn chặn trên miệng. Nói cách khác, giai tầng sĩ phu nho học tàn lụn đi, nhưng ngọn đuốc độc lập, tự do đã truyền lại cho những thế hệ trẻ trung hơn, thích hợp hơn với trật tự thế giới hiện đại.

VŨ NGỰ CHIÊU

[Trích Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883 - 1945, tập II & III, có bổ sung]

----------------------------------------

Phụ chú II:

70. NB 1971, tr. 144-9, 151-3, 158. Chi tiết đáng chú ý là theo lời khai của Nguyễn Thái Bạt, tổ chức của Cường Để và Phan Bội Châu được sự ủng hộ nhiệt thành của các làng Việt kiều Ki-tô tại Xiêm la; CAOM (Aix), 9 PA, carton 2.

71. Xem Phụ bản 8, “Thư của Quang Phục Quân;” Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập I: 1892-1924 (1997), đã dẫn, tr. 282.

72. CAOM (Aix), 9 PA, Cartons 2-3.

73. Attentat contre la prison centrale de Saigon (15 Frévrier 1916), 1er Conseil de Guerre permanent de la Cochinchine, Audience du 21 Frévrier 1916, Réquisitoire du Lieutenant Héon (Sài-gòn: C. Ardin, 1916), tr. 14-29; Ibid., INF, carton 18, d. 185.

74. Mãi tới năm 1917, Quang mới trả tự do cho PBChâu; NB 1971, tr. 175-9.

75. CAOM (Aix), INF, carton 18, d. 175. Các lãnh tụ kháng Pháp còn tổ chức vài cuộc tấn công ở biên giới, tuy nhiên không mang lại hậu quả quân sự nào; NB 1971, tr. 183.

76. Xem chi tiết trong CAOM (Aix), 9 PA, Carton 3. Hầu hết các báo Paris đều loan tin cái chết này; Ibid.

77. Ibid., GGI, dossier 2563. Hầu hết chi tiết dưới đây đã công bố trong Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người & Huyền thoại, tập I (1997). Chúng tôi chỉ trích dẫn xuất xứ các tài liệu mới.

78. Thư Sarraut gửi Bộ Thuộc địa để trả lời văn thư ngày 27/8/1913; CAOM (Aix), 9 PA, carton 5.

79. Xem Phụ bản 9, Chính Đạo, Hồ Chí Minh, Tập I (1997), tr. 283, đã dẫn. Mãi tới ngày 12/3/1913, mọi việc mới giải quyết xong; Báo cáo số 658 A.I., 21/3/1913, Sarraut gửi Colonies; CAOM (Aix), 9 PA, Carton 3.

80. Fernand Hauser, “Phan Châu Trinh Lettré annamite parle de la bombe d’Hanoi,” Le Journal (Paris), 3/5/1913, và “Choses d’Indo-chine,” Ibid., 5/5/1913; CAOM (Aix), GGI, dossier 9615.

81. Ibid., 9 PA, cartons 2 & 3, & GGI, dossier 2563. Chúng tôi sử dụng năm sinh và mất hai ông Toản và Y từ Nguyễn Quốc Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (TP/HCMá: 1992), tr. 918-919, 206.

82. Ibid., GGI, dossier 2563.

83. Ibid., SLOTFOM, Séries III, carton 29. Theo Daniel Hémery, Trinh còn viết cho Roux một lá thư ngày 12/1/1915, với nội dung tương tự; “A propos de la demande d’admission du jeune Ho Chi Minh à L’Ecole Colonniale en 1911;” Vietnam-Asie-Débat-1: La bureaucratie au Vietnam (Paris): L’harmattan, 1983) tr. 29-30. Chúng tôi đã tham khảo tài liệu Papiers Mangin, 149-AP, Carton 11, d. 3, tại Services Historique de l’Armée de Terre (SHAT), nhưng không thấy tài liệu này.

84. Báo cáo ngày 26/6/1915 của Đại Úy Caron. Theo Phan Văn Trường, ông và Phó bảng Trinh được phóng thích vào tháng 7/1915; La Clôche fêlée [Chuông rạn] (Sài-gòn), số 3, 31/12/1925.

85. L’Humanité (Paris), 18/7/1919; trích đăng trong Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập I (1997), tr. 191. Bản thỉnh nguyện thư trên L’Humanité ngày 18/7/1919 không ký tên Nguyễn Ái Quốc, và giới thiệu các tác giả như đảng viên Xã Hội.

86. CAOM (Aix), SLOTFOM, . Duiker in lại truyền đơn này trong bộ sách về Hồ Chí Minh năm 2000.

87. Xem thư trả lời của Phái đoàn Mỹ ngày 20/6/1920; CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries III, carton 3.

88. Ibid., Indo, RSA, carton R1; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, “Vài vấn nạn lịch sử Thế kỷ XX;” Hợp Lưu (Santa Ana, CA), số 84 (8&9/2005), tr. 193. Tưởng nên ghi thêm, không hề có huyền thoại Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Ái Quấc) bị đuổi khỏi trường Quốc học vì tham dự cuộc biểu tình chống sưu thuế. Cha của Côn, Nguyễn Sanh Huy, lúc đó là Thừa biện [Bộ Lại?]; Ibid., GGI, dossier 9620. Có tin Huy được Cao Xuân Dục đỡ đầu cho ăn học; Phỏng vấn điện thoại ông Huỳnh Văn Lang (8/8/1999).

89. Con gái đầu lòng Huy, Nguyễn Thị Thanh, từng bị tòa án Nghệ An kết án 9 năm tù vì trộm súng năm 1918. Con trai cả, Nguyễn Tất Đạt, cũng bị kết án cùng phiên tòa vì tội giúp đỡ một người làm loạn.

90. Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành, 1983; Nguyễn Thế Anh & Vũ Ngự Chiêu, “Từ mộng làm quan tới đường cách mệnh / Du rêve mandarinal au route révolutionaire;” Đường Mới (Paris), số 1 (1983), tr. Xem thêm Service de Contrôle et d’Assistance en France des Indigènes des Colonies francaises, “Notice sur Nguyen Ai Quoc (26/6/1932);” CAOM (Aix), INF, carton 326, d. 2637; Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập I (1997).

91. “Paul Thành” là một trong những bí danh Côn dùng để viết thư cho Phan Châu Trinh. Báo cáo của Caron; CAOM (Paris), SLOTFOM, Séries III, Carton 29. [Một trong những lá thư này in trên Bách Khoa năm 1974, số E, đặc biệt tưởng niệm Phan Châu Trinh].

92. Xem Hélène Carrère d’Encausse và Stuart R. Schram, Marxism and Asia: An Introduction with Readings (London: 1969).

93. Anatoli Sokolov, Quốc tế Cộng Sản (Hà Nội: 1999).

94. Xem 1er Conseil de guerre permanent de la Cochinchine, Attentat contre la prison centrale de Saigon (15 Février 1916), audience du 21er Février 1916, Réquisitoire du Lieutenant Héon (Sài-gòn: C. Ardin, 1916), tr. 4-16.

95. Xem Báo cáo ngày 20/1/1918 của Đại tá Maillard; SHAT (Vincennes), 10H 73.

96. Thực ra Ngọc không dính líu vào vụ này; NB 1971, tr. 192-6, 200-1.

97. Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II (TP/HCM), RSA/HC, HS 4129. Xem thêm chi tiết trong chương XI.

98. Chúng tôi đa tạ học giả Hoàng Xuân Hãn tặng bản dịch Việt ngữ Thất điều thư cũng như nguyên bản chữ Hán (do bà Thu Trang đã tìm ra).

99. L’Humanité (Paris), 10/8/1922.

100. Dẫn trong Nguyễn Phan Quang, Thêm một số tư liệu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ ở Pháp, 1917-1924 (Sài-gòn: 1988), tr. 115. Nếu quả thực có tài liệu này, Leriche đã khá thành thực: đại diện của “rất nhiều đồng hương” ấy là Nguyễn Ái Quấc.

101. Xem CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries III, carton 3. Báo này ra số đầu ngày 1/4/1922, với 1000 bản. Số 2, ra ngày 1/5/1922, gồm 2000 ấn bản.

102. Đặng Văn Thu Louis, tức Đặng Đình Phúc, anh ruột Thọ, chủ khách sạn Restaurant intercolonial (Khách sạn Liên thuộc địa) tại Le Hâvre; Ibid., SLOTFOM, Séries II, cartons 7 & 22; CARAN (Paris), F7-13405; Nguyên Vũ 1997, tr. 105. Xem Phụ Bản.

103. NB 1971, tr. 197-8.

104. Sau vụ mưu sát này, Phạm Hồng Thái–bị chết đuối khi định bơi qua sông Châu–trở thành biểu tượng tranh đấu mới của thanh niên Việt Nam. Xem Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập I (1997); Phan Bội Châu Niên biểu (Chương Thâu), VI, tr. 280-6.

105. Xem chi tiết trong Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập II: 1925-1945 (Houston: Văn Hoá, 1993), tr.28-35. David G. Marr cho rằng lời cáo buộc này chỉ nhằm hạ uy tín Quấc; Dẫn nhập của bản dịch Tự Phán, do Đại học Ohio (Athens) xuất bản. Năm 1944, Ramoin, phụ tá của Lãnh sự J. Royère ở Côn Minh ghi rằng Phan Bội Châu “đầu thú” năm 1925; CAOM (Aix), CP 192. Chẳng hiểu Ramoin dựa theo tài liệu nào.

106. Nguyễn Thế Truyền, là con Nguyễn Duy Nhạc, và cháu nội Tuần Phủ Hàn đã bị Quang Phục Hội ám sát năm 1913. Năm 1924, Truyền thay Quấc điều khiển tờ Le Paria và Công đoàn Liên thuộc địa, và đôi khi vẫn sử dụng bút hiệu Nguyễn Ái Quốc, NAQ hay Nguyễn Ái Quấc. Sau Truyền rút khỏi Đảng CS Pháp, thành lập đảng Việt Nam Độc Lập, với cơ quan ngôn luận là tờ Việt Nam Hồn vào năm 1927. Báo ra được ba số thì Sarraut ra lệnh cấm lưu hành. An ninh Pháp cho rằng Truyền và nhóm L’Âme annamite/Việt Nam Hồn là Đệ Tam QTCS. Cuối năm 1927, Truyền đột ngột về nước. Xem sơ lược tiểu sử trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, 1919-1975, Tập III: Nhân vật chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 374-377.

107. Ngày 24/12/1925, nhóm Jeune Annam viết thư xin Varenne ân xá cho Phan Bội Châu nếu không muốn phải cai trị bằng bạo lực. Đồng thời, gửi điện tín xin Bộ Thuộc Địa hủy bản án Phan Bội Châu. Về tổ chức này, xem CAOM (Aix), Amiraux 64230 (cote cũ: GGI, F03-68). Sau này, Phạm Quỳnh cùng Trần Đình Nam lập Việt Nam Tiến Bộ Dân Hội, xin gặp Varenne, nhưng Varenne không tiếp; Gouvernement Général d’Indochine [GGI], DAP & SG, Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’Indochine Francaise, Documents, vol I: Le “Tân Việt Cách Mạng Đảng” (Hà Nội: 1933), tr. 18. [Sẽ dẫn: GGI, Contribution, vol I]. Sau đó, Nam bị thuyên chuyển khỏi Huế, và trở thành tử thù của Quỳnh. Xem thêm CAOM (Aix), Amiraux 64231 (F-03 68). Theo Đào Duy Anh, tài liệu này không hoàn toàn đúng sự thực, vì những lãnh đạo đã bí mật liên lạc để sắp đặt lời khai chạy tội. Xem thêm, Hà Huy Tập, “Lịch sử của Tân Việt Cách Mệnh Đảng” (Mat-scơ-va, 4/10/1929); VKĐTT, I: 1924-1930, 2002:433-459.

108. Xem, chẳng hạn, bài của Phạm Quỳnh trên Indochine Républicaine (Hà-nội), 2/11/1925. Xem thêm Marr 1981:15-19. Xem lời thuật của một nhân chứng trong Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, 1996:143-6. Phiên xử ngày Thứ Hai, 23/11/1925, Hội đồng đề hình xét xử Phan Bội Châu do Jules Bride chủ tọa. UV: Đốc lý Dupuy, Biện lý Boyer, Phụ thẩm Đại úy Bellier. Bùi Bằng Đoàn và một người Pháp làm thông ngôn. Luật sư Raymond Bona và Larre cãi cho PBC. Bride đồng ý cho dân chúng vào xem. Mở đầu, Bride tuyên bố tội danh của PBC như sau: Khi tại Tàu và Xiêm, bị tội tùng đảng, “xui dục cho người ta phạm tội, cấp tạc đạn cho Phạm Văn Tráng giết chết Tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn ngày 12/4/1913, xui dục Nguyễn Văn Tuy tức Tài Xế và Nguyễn Khắc Cần lấy lựu đạn ném chết Thiếu tá Mongrand và Chapuis tại Hanoi Hotel, can dự vào những việc âm mưu chực thay đổi chính phủ, khiến cho việc chính trị phải rối loạn.” PBC khẳng định “chỉ có tội muốn độc lập; lập dân chủ; du học ngoại quốc; bỏ lối thi cử cũ; đánh thức dân Annam đang say ngủ.” Ông chủ trương lấy văn hóa tranh đấu; không dùng bạo lực. Luật sư Larre chỉ cãi tổng quát. Luật sư Raymond Bona cãi từng tội danh. 20G30 phiên tòa mới chấm dứt. Đa số cho rằng PBC có tội (9 khoản). Xem Việc Phan Bội Châu tại Hội đồng Đề Hình: Phiên ngày 23 Novembre 1925 (Hà Nội: Trung Bắc Tân Văn, 1925).

109. CAOM (Aix), PA 13 [Papiers Jules Bride], Carton 1.

110. JOIF (Hà-nội), 26/12/1925; CAOM (Aix), AP, carton 1642; La Cloche Fêlée (Sài-gòn), 4/1/1926.

111. Sau ngày về Huế, Phan Bội Châu chỉ xuất hiện trước công chúng 3 lần: tháng 3/1926, nói chuyện với học sinh trường Khải Định và Đồng Khánh Huế, và đọc điếu văn nhân dịp quốc táng Phan Châu Trinh. Ngày 1/12/1926, ông đột ngột ra Hà Nội, nhưng bị chặn lại ở Vinh, rồi đưa trở lại Huế; L’Humanité (Paris), 29/1/1927.

112. CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries IX, Cartons 1-2.

113. Báo cáo của Désirée ngày 26/2/1925. Trụ sở hội này đặt tại số 15 phố Sommerard.

114. CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries IX, Carton 1-2.

115. Ibid.

116. Trong buổi thảo luận về ngân sách Bộ Thuộc địa ngày 22/11/1924, Bộ trưởng TĐ Edouard Daladier–để trả lời câu hỏi của Dân biểu Moutet–cho biết Phan Châu Trinh được chấp thuận về nước, nhưng vấn đề nhập tịch chưa hợp thời; JO, Débats parlementaires, 23/11/1924, tr. 4730-3. Toàn quyền Merlin đồng ý mua vé tàu hạng 2 cho ông hồi hương. Trong báo cáo gửi QTCS ngày 19/2/1925, Nguyễn Ái Quấc cho rằng vào đầu năm 1925, Thủ tướng Herriot đặc ân cho Phan Châu Trinh vào dân Pháp trước ngày ông hồi hương; Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập I (1997), tr. 264; VKĐTT, 8: 1924-1930, 2002:10-12.

117. CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries IX, Carton 10.

118. “Constatation de décès de Sa Majesté Khai Dinh, Empereur d’Annam, par Laurent Gaide, Chef de Service de Santé d’Annam, et Léon Normet, (7/11/1925);” TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA, HS 4137. (Ngày 4/11/1925, Toàn quyền Monguillot yêu cầu cho Vĩnh Thụy hồi hương gấp. Ngày 6/11/1925, Nguyễn Đức Tâm, TTK Cơ Mật, gửi CĐ báo cho Khâm sứ Pasquier biết Khải Định từ trần lúc 5 giờ 10 sáng ngày 6/11/1925. Biên bản xác nhận cái chết của Khải Định do Pasquier lập. Ngày 9/11/1925, Cơ Mật gửi công điện cho các tỉnh báo tin Bảo Đại được lập làm tự quân, với Tôn Thất Hân làm Phụ chính. (TTK Cơ Mật: Nguyễn Đăng Tâm). Ngày 17/11/1925, Monguillot gửi công điện chấp thuận đề nghị của Viện Cơ Mật ngưng việc treo cờ rủ, để đón chào tân Toàn quyền Varenne (đến Sài Gòn ngày 28/11/1925) và lễ đăng quang của Bảo Đại. (CĐ ngày 19/11/1925, J. d’Elloy, gửi Cơ Mật) Ngày 19/11/1925, Jean Charles gửi CĐ báo cho Pasquier biết Bảo Đại sẽ lên đường về nước ngày 4/12/1925).

119. CAOM (Aix), Amiraux 64230 (cũ: F03-68).

120. TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA, HS 4134. (Khải Định để lại một di chúc bằng Hán tự và một bằng quốc ngữ, để trong một cái hộp. Mở ra ngày 7/11/1925. (Bản dịch Pháp ngữ, 6 trang). Theo Khải Định, Tất cả những thay đổi về chính trị là do lỗi của Thành Thái và Duy Tân: Thành Thái là một ông vua trụy lạc, đã phạm nhựng lỗi vô đạo đức, ông ta chẳng lo gì đến dân chúng hay vương quốc, ông ta không tôn trọng Cửu miếu [Thanh Thai est un roi débauché, il a commis des actes immoraux, il ne s’est pas occupé ni de son peuple, ni de son royaume, il n’a pas respecté la culte des “Cửu Miếu” (Temples royaux: Il y a dans chaque temple neuf autels dédiés aux rois antérieurs. Ces 9 autels correspondant aux 9 grandes urnes dynastiques qui elles mêmes sont anonymes de pouvoir royal et autoritée royale)] Khải Định yêu cầu chính phủ Bảo hộ cứu vớt [sauvegarder], bảo vệ tông miếu và lăng tẩm Hoàng tộc. Cho Vĩnh Thụy tất cả di sản. Sau khi Vĩnh Thụy lên ngôi, cho mẹ đẻ lên làm Thái hậu [Reine Mère]. Xem Phụ bản.

121. Xem biên bản của Pasquier và Thái Văn Toản ngày 1/11/1925; TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA, HS 4135: (Biên bản của Pasquier: Do tình trạng sức khoẻ của Khải Định, lúc 8G30 sáng, Hoàng Thái Hậu mời các thành viên Viện Cơ Mật và Tôn Nhơn Phủ vào điệỳn Kiến Trung. Lúc 10G00, họ quyết định mời Pasquier đến thảo luận. 10G10, sau khi bàn bạc sơ sài với thành viên Viện Cơ Mật, Pasquier cùng họ vào phòng Khải Định, nơi đã có các Hoàng Thái hậu. Hiện diện: Pasquier; Nguyễn Hữu Bài; Hồ Đắc Trung: Lễ kiêm Học; Tôn Thất Trạm: CT Tôn nhơn phủ; Võ Liêm: Bộ Công; Trần Đình Bách: Bộ Hình; Phạm Văn Thụ: Bộ Hộ kiêm bộ Binh; Thái Văn Toản: Phủ doãn Thừa Thiên, phụ trách thông ngôn. Khải Định ủy thác mọi việc cho Pasquier. Biên bản của Thái Văn Toản: Khải Định ủy thác mọi việc cho Pasquier).

122. CAOM (Aix), FOM, Carton 919, d. 2797.

123. JOIF (Hà-nội), 1925, tr. 2403-4; Nam Phong (Hà-nội), số 99 (9/1925), tr. 297-9. Theo Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hữu Bài thoạt tiên không chịu ký Qui ước 6/11/1925, nhưng cuối cùng nhượng bộ vì Pháp đồng ý lập Viện Dân Biểu (mất vua được dân); Tiếng Dân (Huế), 2/8/1935.

124. Báo cáo ngày 16/3/1926, Pasquier gửi Toàn quyền Varenne [tr. 17-20]; CAOM (Aix), Amiraux 64231.

125. Thư ngày 18/1/1926, Varenne gửi Perrier; Ibid., FOM, carton 919, d. 2797. Về thuật ngữ “tiểu nha môn” của Tòa Khâm sứ Huế, xem Nam Phong (Hà-nội), (6/1933), tr. 18. Năm 1946, Bảo Đại cũng ví triều đình Huế như một “bureau” của Tòa Khâm sứ. Xem Phụ Bản.

126. La Clôche fêlée (Sài-gòn), 4/1/1926.

127. Báo cáo ngày 26/7/1933, Pasquier gửi BTTĐ; CAOM (Aix), INF, carton 366, d. 2905. Theo Huỳnh Thúc Kháng, thời kỳ Nguyễn Hữu Bài cầm quyền, tham nhũng tràn lan, và Bài là người quá sùng đạo; Tiếng Dân (Huế), 2/8/1935.

128. Nam Kiều [Trần Huy Liệu], Tiểu sử ông Phan Châu Trinh (Sài Gòn: Đông Pháp Thời Báo, 1926), tr. 115-200; dẫn trong David G. Marr, Vietnamese Tradition On Trial, 1920-1945 (Berkeley: Univ of California Press, 1981), tr. 19-23. Có nguồn tin nói số người dự tang lễ lên tới hơn 140,000 người; Idem., Anti-Colonialism, 1971:273n70; Phan Chau Trinh, A Complete Account, 1983:111.

129. Xem Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, 1996:146-9. Hầu hết các đảng viên chính trị hay cách mạng trong thế hệ kế tiếp–kể cả Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), v.. v...– đều tham gia ba phong trào yểm trợ Phan Bội Châu (1925), quốc táng Phan Châu Trinh (1926), và Quốc táng Lương Văn [Ngọc] Can (1927).

Ý kiến bạn đọc
13 Tháng Mười Một 20141:11 SA
Khách
Xin sửa đổi chi tiết phụ chú 118: ttk (tổng thư kí) Cơ Mật lúc đó là Nguyễn Đăng Tam,(ông nội của tôi) chứ không phải Ng Đức Tâm hay Ng Đăng Tâm...
Nếu tác giả có biết tài liệu nào trong đó có tên và sự kiện về Nguyễn Đăng Tam, xin cho biết. Nghe nói ông tôi sau đó được thăng hàm lên Thượng Thư bộ Lễ nhân dịp lễ đăng quang Bảo Đại (tháng giêng 1926). Xin cảm ơn trước. tác giả. NĐL
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9953)
(Xem: 9734)
(Xem: 9230)
(Xem: 9685)
(Xem: 10168)
(Xem: 9206)
(Xem: 10039)
(Xem: 10656)