(Ảnh trình diễn truyện ngắn Đàn sẻ ri bay ngang rừng
của nhà văn
Võ Thị Xuân Hà, tại L'espace, ngày 29/4/2009)
Nhân dịp này (dịp này là dịp nào? :P), tôi
đã đọc lại và đọc thêm rất nhiều truyện ngắn của Võ Thị Xuân Hà, cũng như một
phần các tiểu thuyết. Về sau này, giọng văn của Võ Thị Xuân Hà vẫn giữ nguyên
tính chất điềm đạm có phần trầm lắng như tôi đã đề cập lúc trước, và cách thể
hiện, lối viết vẫn nhất quán ở các điểm: luôn tìm câu chuyện để kể, kể bằng các
hình thức suy lý, đi kèm nhiều nhận xét, và tìm cách sắp đặt các chi tiết. Việc
sắp đặt này những khi thành công sẽ tạo được các hiệu ứng thẩm mỹ tốt ở người
đọc. Hiện tượng này nổi bật ở một số truyện sau này như “Chuyện của con gái
người hát rong” hay “Không khóc ở Seoul”, và đặc biệt thành công ở “Đàn sẻ ri
bay ngang rừng”. Theo tôi, cho tới lúc này, “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” vẫn là
tác phẩm hoàn chỉnh nhất, xuất sắc nhất của Võ Thị Xuân Hà, cả ở cảm hứng, cách
viết, lẫn mức độ xâm lấn tình cảm ở người đọc.
Trước tiên là màu sắc
Điểm đầu tiên khiến tôi quan tâm khi đọc “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” là màu sắc.
Có ba màu xuất hiện với tần số cao trong truyện, trong đó nổi bật, như một gam
màu chủ, là đỏ (bên cạnh hai màu khác là xanh và trắng). Tổng cộng có tám lần
màu đỏ xuất hiện, hai lần đầu tiên trong chuyến bắn chim sẻ của hai vợ chồng
nhân vật Thản, lần thứ ba cũng trong trường đoạn này, nhưng là màu của mặt
trời. Lần thứ tư là khi người vợ sinh con và người anh chồng hiện ra để theo
dõi cảnh tượng, lần thứ năm tại Quảng Trị khi đoàn làm phim dựng cảnh chiến
trận (ở đây là bụi đỏ), lần thứ sáu là khi người vợ hồi tưởng về trang phục của
Nẫm, người anh chồng, hiện hồn, lần thứ bảy dùng để miêu tả phù sa sông Thạch
Hãn, và lần cuối cùng dùng để tả màu những vì sao trên trời.
Màu đỏ trong “Đàn sẻ ri bay ngang rừng”, như vậy, luôn xuất hiện ở các chi tiết
then chốt, bước ngoặt của câu chuyện, giống như một điềm báo, giống như một thứ
biển báo màu đỏ tiết lộ tính chất quan trọng của các tình tiết sắp tới (các chi
tiết quan trọng này là việc bắn chim sẻ, việc người anh chồng hiện hồn, việc
tái hiện chiến trường xưa, và việc nó có vị trí quan trọng trong tâm trạng của
nhân vật chính). Màu đỏ này cũng thường xuyên được đặt trong sự đối nghịch với
các màu khác: ở đoạn bắn chim sẻ là màu đỏ trong thế đối sánh với màu trắng của
hoa (“Đàn sẻ táo tác dợm bay đặc trời. Một con rơi dúi xuống bụi cây xa xa, máu
loang đỏ lòm lòm trên những bông hoa gai màu trắng sữa”), rồi màu xanh của cỏ,
rồi lại màu xanh (ở chi tiết những vì sao không có màu xanh mà lại có màu đỏ
gần cuối truyện). Điều đó càng cho thấy rõ hơn địa vị ưu thế của màu đỏ trong
gam màu chung. Màu đỏ của truyện cũng thường xuyên đi cùng một tính từ nữa, tạo
ra các từ ghép như “đỏ nhờ” hoặc “đỏ bầm”.
Và chúng ta dễ dàng nhận ra màu đỏ của “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” thường xuyên
nhất được dùng để tả máu. Máu khi người vợ sinh con, và máu khi những con chim
sẻ bị bắn chết: sự đối lập của màu đỏ của bắt đầu sự sống và màu đỏ của bắt đầu
sự chết. Màu đỏ này khác với những sắc thái ẩn dụ hay được sử dụng, như màu của
nhiệt huyết, màu của niềm tin, màu của hy vọng. Ở đây, khi được đặt vào những
tình huống “lệch chuẩn”, chúng liền mang hàm ý về sự mỉa mai và cay đắng.
Toàn bộ những biến thể của một màu đỏ đi ngược lại sắc thái chính thống này
được đặt trong một khung truyện vừa khéo léo vừa rất cổ điển: truyện “Đàn sẻ ri
bay ngang rừng” có cấu trúc thường xuyên được các nhà văn viết truyện ngắn sử
dụng: cấu trúc flash-back, sử dụng lại nhiều lần một
khung cảnh (ở đây là cảnh bắn chim sẻ trong rừng, và cảnh trước bàn thờ người
anh chồng liệt sĩ), với hiệu quả nhấn mạnh thêm vào tính chất bi thảm được kìm
nén. Càng về cuối tốc độ và sự căng thẳng càng được đẩy cao lên, nhưng đến kết
cục lại buông xuống, chùng xuống với cảnh bắn chim sẻ được lặp lại, như một gợi
ý cho sự yên bình sau toàn bộ các biến cố (dù cho sự yên bình này rất có thể là
giả tạo).
Những chuẩn bị kỹ lưỡng về nhịp điệu (tempo)
và cách sắp đặt các phân cảnh là cần thiết cho nội dung truyện, các lệch chuẩn
của dáng vẻ tiết lộ trước sự lệch chuẩn của nội dung bên trong: “Đàn sẻ ri bay
ngang rừng” sẽ động tới một số đề tài mang tính cấm kỵ: người liệt sĩ (chẳng
hạn như câu văn hết sức nhạy cảm: “Em vừa nhìn thấy anh Nẫm về. Anh ấy hôn con
mình và xem em cởi truồng”, trong đoạn người vợ sinh con, nằm trên giường trong
sự đau đớn của việc sinh nở), và sự “chống đối” của người phụ nữ trong gia đình
(chống lại quyền lực của cha mẹ, của lễ giáo, của truyền thống), và nhất là một
cái nhìn đầy cay đắng về chiến tranh và thân phận con người ở trong cuộc chiến
đó. Rất có thể đây chính là nguyên nhân khiến “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” từng
bị loại ra khỏi một cuộc thi truyện ngắn khi nó vừa được viết xong (năm 1993).
Sự cay đắng này ta có thể bắt gặp ở các tác phẩm của Bảo Ninh, như tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh, và nhất là truyện ngắn “Gió dại”.
Như chúng ta còn nhớ, truyện ngắn “Gió dại” kể về một mùa khô ác liệt trên
chiến trường, một mối tình “giữa hai bờ chiến tuyến” với một câu kết nổi tiếng.
Hiếm ở đâu trong văn học Việt Nam về chiến tranh và hậu chiến như ở “Gió dại”
và “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” nỗi cay đắng về chiến tranh lại lớn đến vậy (ta
có thể đọc được trong “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” những câu như: “Tôi căm tức
nghĩ, may mà hồi đó có đánh nhau, chứ cứ im ắng như bây giờ, những đứa con chán
cha mẹ chỉ có nước đi lang thang”, hoặc “Nhưng anh Nẫm chân đạp đất mà đầu phải
đội đạn”, hay “Tình yêu của chúng tôi mới đầu đã dợm mùi thuốc súng”), và được
thể hiện cũng theo một mô hình khá giống nhau: sử dụng các ẩn dụ hàm nghĩa rõ
rệt về sự vô nghĩa, nhỏ nhoi: ở “Gió dại” là những cơn gió thổi hoang vu, còn ở
“Đàn sẻ ri bay ngang rừng” là sự bạt ngàn của những con chim sẻ: bởi vì lũ chim
sẻ đông đến như vậy, nên cái chết của các cá thể chim sẻ hoàn toàn giống như
một điều vô nghĩa.
* Lục mãi trên Internet mới thấy “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” (không chắc chắn là đúng y như bản
chính thức đâu nhé). Cũng trên trang này có thể đọc một số truyện khác.
Recommend các bác “Chuyện của con gái người hát rong”, tình tiết bị sắp xếp hơi
quá mức nhưng không tệ. Bản tiếng Pháp “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” nằm trong tập Au rez-de-chaussée du paradis (tên này là nhan đề truyện của Bùi
Hoằng Vị cũng trong tập, bìa là tranh Trần Trọng Vũ, người dịch là Đoàn Cầm
Thi).
* Xét về độ tuổi, Võ Thị Xuân Hà thuộc vào một thế hệ nhà văn như Hồ Anh Thái,
Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, rồi sau này
một chút là Phan Triều Hải, Phan Thị Vàng Anh, thế hệ của các nhà văn sinh ra
trong khoảng thời gian từ cuối những năm 1950 cho tới cuối những năm 1960. Đó
là thế hệ cuối cùng có mối liên hệ trực tiếp với chiến tranh (mà tôi gọi là “ký
ức lớn của Việt Nam”).
Điều này tạo ra những đặc điểm dễ thấy: các nhà văn thế hệ này càng ngày càng
ít là nhà văn quân đội như thế hệ ngay trước đó, tuy nhiên mối liên hệ với
chiến tranh vẫn thể hiện trong đề tài tác phẩm, nhiều tác phẩm viết về chiến
tranh. Cái khác là ở chỗ cách nhìn về chiến tranh (như ta đã thấy trong “Đàn sẻ
ri bay ngang rừng”), cảm giác về chiến tranh, cũng như cách khai thác thời kỳ
hậu chiến.
Tôi lại thuộc thế hệ ngay sau đó, thế hệ của những người sinh cuối thập niên 70
đầu những năm 80, có thể gọi là thế hệ đầu tiên hoàn toàn không còn liên hệ
trực tiếp với cuộc chiến tranh, và cảm giác về thời hậu chiến, nền kinh tế bao
cấp cũng khá nhạt nhòa. Lẽ dĩ nhiên, thế hệ ngay tiếp theo sẽ có một sự hứng
thú lớn lao dành cho thế hệ ngay trước mình. Khi bắt đầu đọc văn học, cách đây trên
dưới mười lăm năm, tôi đã từng đọc không ít tác phẩm (chủ yếu là truyện ngắn)
của lớp nhà văn này. Đó cũng chính là thời điểm của những năm 1993-1994, khi
Đại hội nhà văn trẻ toàn quốc được tổ chức, và thời gian ấy, cho đến đầu những
năm 2000, chính là thời điểm nở rộ của truyện ngắn Việt Nam sau Đổi mới. “Đàn
sẻ ri bay ngang rừng” (viết năm 1993) thuộc vào dòng chảy này. Nhận xét của cá
nhân tôi là thế hệ các nhà văn đang nói đến ở đây nhận được sự kỳ vọng rất lớn
của xã hội cũng như các nhà văn lớp trước, với mong muốn tạo ra các thay đổi
căn bản trong nền văn học Việt Nam, và quả thực họ đã tạo ra được một số thay
đổi so với trước (xét về cách viết), chẳng hạn có thể kể đến truyện ngắn của
Phan Thị Vàng Anh hay Phan Triều Hải. Nhưng có một thực tế là từ nhiều năm nay
thế hệ các nhà văn này không còn thường xuyên xuất hiện trên văn đàn nữa, ngày
càng ít có tác phẩm. Ngoài Hồ Anh Thái vẫn đều đặn in sách mới thì chỉ còn rất
ít sự hiện diện có thể kể tên, và trong những hiện diện đó có Võ Thị Xuân Hà.
Võ Thị Xuân Hà là nhà văn thành công về truyện ngắn hơn hẳn so với tiểu thuyết,
tuy đã in ít nhất là hai quyển tiểu thuyết: Tường thành và Trong nước giá lạnh. Điều này khiến Võ
Thị Xuân Hà gần với các nhà văn của thế hệ mình: tập trung vào truyện ngắn nhiều
hơn là tiểu thuyết. Các truyện ngắn nổi tiếng của Võ Thị Xuân Hà: ngoài “Đàn sẻ
ri bay ngang rừng” còn có thể nói tới “Lúa hát”, “Nhà có ba chị em” hay “Cây bồ
kết nở hoa”. Đặc trưng cho cách viết của Võ Thị Xuân Hà là một giọng văn điềm
đạm, nhiều nhận xét, ít tình cảm, đậm nét cay đắng.
Năm 1992, Võ Thị Xuân Hà xuất bản tập truyện ngắn Vĩnh
biệt giấc mơ ngọt ngào (tác
phẩm tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du?), tác phẩm đầu tay, và kể từ đó đến
nay đã có thêm nhiều tập truyện ngắn, như Màu vàng thần tiên, Kẻ
đối đầu, Chuyện của con gái người hát rong, hay
gần đây hơn cả là Thế giới tối đen.
- Cao Việt Dũng –
Nguồn: http://nhilinhblog.blogspot.com/2009/05/va-nguoi-ta-ban-chim-se.html