- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ CHUYẾN NGƯỢC DÒNG VỀ “CÕI LẶNG”

12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 91323)

coilang_nkdiem-content

Thơ hay không hẳn vì cái áo ngôn từ bay bổng mà hay bởi tính triết lý đằm sâu. “Cõi lặng” [1] của Nguyễn Khoa Điềm là như thế. Lời thơ chân thật, tuôn trào tự nhiên trong từng sát na. Nhưng ẩn bên trong là “động”, cái “động” nhân tình, suy tư, chiêm nghiệm của một chủ thể triết luận sắc sảo. Đón nhận chuyến ngược dòng trở về “Cõi lặng”, người đọc như bị mê hoặc trước một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm.

Một thời gian dài, tính từ tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986), Nguyễn Khoa Điềm mới xuất bản tập “Cõi lặng” (2007). “Cõi lặng” được viết trong nguồn cảm hứng trở về, sau cuộc giã từ chính trường, “chia tay với điện thoại bàn, cạc-vi-dit, nắm đấm mi-crô”, sống trong tự do “một mình một ba-lô và xe đạp”. Bây giờ, “gió gọi anh đi” để anh trở lại là “một người trong mọi người”. Vì thế, nỗi niềm, giọng điệu của “Cõi lặng” rất thật. Nó như là những lời tự vấn, tự thú, sám hối của nhà thơ trước cuộc đời. Qua cuộc nói chuyện giữa Thanh Thảo với Nguyễn Khoa Điềm (do Trần Đăng ghi lại), chúng ta mới thấu hết tâm sự của một người khi trở lại với quê hương, với thơ: “Bây giờ cần phải có một dòng “văn học sám hối” ông à. Tôi ủng hộ ông tiếp tục làm thơ theo xu hướng đó, song ông mà dấn thêm điều này nữa thì mới… hoành tráng. Đó là, thi thoảng mình cũng nhớ đến “nắm đấm mi-cơ-rô và điện thoại bàn”, nhớ “giày đen, cà vạt” nữa chớ ông! Có thể ngay thời điểm này thì ông không nhớ đến ba cái thứ lằng nhằng ấy, song một năm nữa chẳng hạn, ông lại nhớ đến nó cho coi! Điều đó cũng bình thường thôi. Và khi ông “nhớ” những thứ ấy mà thành thơ được, ông mới chính là ông. Tôi tin rằng những bài thơ kiểu như thế sẽ rất hay vì nó đẩy con người đến chỗ tận cùng của sự trần trụi. Không sợ hãi và không che đậy” [2].

Ở “Cõi lặng”, người đọc nhận ra được một hình tượng nghệ thuật có dáng dấp con người thực của tác giả - cốt cách của một thi nhân. Những trăn trở từ đáy lòng đều được cởi trói. Người thơ ấy hòa vào mọi người, vào quê hương để soi chiếu gương mặt của mình, đứng trong hiện tại mà chiêm nghiệm, ngẫm suy.

Thơ ca đang đi trên con đường vô hạn của nó. Những cuộc đổi thay đều cần thiết cho gương mặt của nền thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, dù có cách tân, khoác lên nó chiếc áo hậu hiện đại hay là gì gì đi chăng nữa, thơ bao giờ cũng cần tính triết lý. Những đòi hỏi đó không thể chối bỏ và vĩnh cửu. Bàn về vấn đề này, Hồ Thế Hà nhận định: “Chất triết lý trong thi ca, đặc biệt ở những nhà thơ lớn, bên cạnh kiểu tư duy thuận lý, dường như bao giờ cũng thể hiện sự nghịch lý nhưng là sự nghịch lý nằm trong tính toàn thể của nó, bao gồm cả hình thức và nội dung, để cuối cùng người đọc nhận ra một nét riêng, một phong cách đặc biệt từ sự hài hòa này” [3]. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu tính triết lý. Một thứ triết lý đầy bản thể với trách nhiệm và ý thức đích thực của người làm ra nó.

Không cầu kì về hình thức, câu chữ tự nhiên, đời thường, ít thủ thuật phân cắt con chữ, ông hóa giải hình thức thơ ca bằng những đào sâu chiêm nghiệm. Những chiêm nghiệm bắt nguồn từ mạch ngầm kí ức:

Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất

Bao người đã mất, đang còn

Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp

Không một dấu vết

Những mặt ruộng nứt nẻ

(Cánh đồng buổi chiều)

Hành động “cúi xuống” đã nói hết sự trân trọng của nhà thơ đối với những gì “đã mất, đang còn” của thân phận con người. Câu thơ dài, ngắn đan xen như chính từng giọt lòng của ông tan chảy vào đời.

Những chiêm nghiệm trong “Cõi lặng” được hành động hóa để đến và đi từ chốn thực thực hư hư như dòng sông Hương huyền thoại trôi mãi trong tâm khảm con người: 

Anh trôi đi

Không bắt đầu không kết thúc, không bờ bến

Anh mang tự do của nước đến với cuộc đời

Như sông từ hữu hạn đến vô hạn

Để mãi mãi có mặt

Để sống

Bên người

Phải chăng Sông Hương?

(Sông Hương)

“Trôi” ngỡ hồ nhẹ nhưng không nhẹ vì cái đích của nó là không cùng. Nhà thơ “trôi” với tư thế rất riêng: “Anh nằm cong như một con thuyền neo bên sông”. Tư thế trở trăn của một tâm hồn “Thơ ta, ta gửi đến bao người” dù đã “hăm hở đôi vai tuổi tác” nhưng vẫn “Bằng bước chân chậm rãi/ Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi” để “quẫy đạp một hành trình mới”: “Cả người nằm trong đất, cả người đang đi trên đường/ Chúng ta nhìn đời bằng ánh mắt ngay thẳng/ Bởi chúng ta là người chiến thắng”. Một hành động, một tư thế, một hành trình vô tận... như thế rất thiết thực cho thơ và cho cả người thơ. Ngay trong cơn buồn đau, hư tàn, với Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hy vọng:: “Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành/ Nỗi buồn đánh thức hy vọng” (Hy vọng). Nơi tàn nhẫn nhất, buồn nhất lại là “cõi lặng” để cọ xiết lòng mình trước âm ba cuộc sống.

Nhà thơ xem cuộc trở về này là một “định vị”. Mà quả đúng thế! Một người quả quyết “hút tâm trí đường bơi những con bống cát” “đi mãi vào cánh đồng buổi chiều”, chỉ còn lại “anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ” để khoáng đạt cõi tâm mình: “Giấc mơ xưa dù bao dâu bể/ Bên thềm xuân còn một nhành mai”. Cho nên, những hình ảnh con sông quê hương, cây long não nhà bạn, cánh đồng làng, cố nhân... trong thơ ông đều chứa chất tâm sự. Khi bạn lục đục vào nấu ăn, một mình nhà thơ với cây long não cũng trở thành câu chuyện cuộc đời: “Cây long não già mà lá trẻ/ Như ta giữa cuộc đời này.../ Năm tháng bên nhau/ Nhận lấy phần bụi bặm/ Trả ta hương lành/ Và một chút gì sâu xa/ Không rõ nữa” (Ngồi với cây long não nhà bạn).

Như vậy, kí ức trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là kí ức-hành động chứ không phải là kí ức-dĩ vãng. Nguyễn Khoa Điềm viết “Cõi lặng” nhưng đâu phải là chốn nhàn hạ, trốn mình mà là chốn sôi động của tâm hồn. Về với “cõi lặng” để giao cảm giữa mình và đời, để khẳng định bản lĩnh và nhân cách của một thi sĩ. Nên, chuyến về này là “chuyến về” để tiếp nối lộ trình con người:

Anh gọi đó là chuyến về không hạn định

Để là một người trong mọi người

Anh tham dự trận tấn công cuối cùng

Vào cái chết

Hãy lộn ngược da anh

Và ghi lên đó mật khẩu:

- Không lùi bước!

(Bây giờ là lúc...)

Dù: “Mắt mũi ngày càng kém/ Chữ nghĩa rậm rịt điều cao xa/ Bao giờ, nơi nào, anh đọc được mình/ Qua nỗi đau nhân loại?” (Những quyển sách), nhà thơ vẫn không ngừng tiếp bước. Đấy là sự thiết lập tương hỗ giữa nhà thơ với cuộc thế. Người đọc có thể chưa hào hứng với tính “vô tư” câu chữ của “Cõi lặng” nhưng lại bị lôi kéo bởi lớp trầm tích trong đó. Những hình ảnh, con người đời thường, những chớp nhoáng của nỗi nhớ, của sự luyến tiếc pha chút ân hận... lôi kéo, đầy ma mị.

Những cảm hứng thế sự được nhìn nhận qua lời thơ thầm ẩn như “mùi thơm lúa khoai thân thuộc” mà lại tái tê, se thắt. Ông nhận ra mồ hôi quá rẻ rúng trước cuộc sống đầy cạm bẫy và rỗng rênh:

Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học

Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố

Hung bạo văn chương, tố giác nặc danh

Lạng lách thời thượng và sành điệu

(Nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy)

Sự sống được liệt kê, bày ra hết thảy. Trong cuộc sống hỗn độn ấy, mạnh yếu trở thành hý trường:

Những kẻ mạnh luôn đánh thắng

Những kẻ yếu luôn đổ máu?

Kẻ mạnh chiếm đa số trong nghị viện

Kẻ yếu bị rượt đuổi trên đường phố?

...

Kẻ mạnh ném bom ở Afghanistan, Irak

Kẻ yếu gom từng chút tự do gãy nát

Thế kỷ 21

Phải chăng thế kỷ của kẻ mạnh?

Theo Bakhtin, bản chất của thơ ca là bày biện thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật trữ tình và tác giả đời thực dù có giống nhau nhưng không hoàn toàn trùng khít. Hình tượng nhân vật trữ tình luôn bị chi phối và kiểm soát bởi ý thức của tác giả. Bởi vậy, “Cõi lặng” ấy đâu chỉ dành cho riêng ông mà nó còn dành cho người đọc. Những sát na cõi lặng vô cùng quý giá. Cõi lặng giúp con người chiến đấu với chính mình: “Để mình còn là mình/ Mình là sự sống” (Sự sống).

Sự tự thể hiện suy ngẫm của mình ở “Cõi lặng” đưa thơ Nguyễn Khoa Điềm đến cách thể hiện trực diện. Ông đã nhìn uyên thâm đằng sau bức màn nhung của chính trường sự thực đầy những quằn quại về thân phận nhân sinh. Sự trở về của một cái tâm sáng, một người mạnh mẽ “Chào anh công chức rời những tờ giấy nặng” để làm mới cuộc đời mình:

Rồi con nhớ lại trong đời con cũng đã từng đứt bữa

Cũng đã từng lấy cơm chấm cơm

Mỗi hạt cơm cõng một củ sắn, củ khoai hoặc chỉ là rau dại

Lúc đó mỗi hạt cơm trong miệng con thật ngọt bùi, thơm thảo

Con không cần ăn đến sơn hào hải vị

Để biết đến vị ngon có thể có trong đời

Chỉ cần trong một sát-na con biết lắng mình vào cuộc sống

Một hạt cơm là cả cuộc đời”

(Tập Thiền)

Thiền như cái gương vô hình của cuộc sống. Điều cơ bản là người ta ngộ được chân lý Thiền. Hướng đến cõi thiền là hướng đến sự thánh thiện tâm. Tâm giác ngộ thiền. Thiền làm tâm sáng. Ngay trong bữa cơm, Nguyễn Khoa Điềm nhận ra chân lý thiền. Đó là sự giác ngộ của một tâm hồn đau đáu với cuộc sống nhân sinh khi soi vào cái mơ hồ - “cõi lặng” - chốn sâu nhất của bản ngã để tìm gương mặt mình: “Anh soi thấy mặt mình/ Với nỗi buồn trong sạch” (Cõi lặng).

Mỗi bài thơ là một trải nghiệm. 56 bài thơ trong “Cõi lặng” là 56 nỗi niềm. Những nỗi niềm ấy gom lại kết nên một hồn thơ ưu tư, trăn trở. Sự trăn trở ấy cuồn cuộn khi đón nhận hạnh phúc ngay chính cuộc đời trụi trần này. Nó đã làm nên linh hồn, sức nặng của tập thơ: “Tôi đi mãi vào sớm xuân/ Làm một người trắng nợ/ Thong dong mà mới mẻ/ Cầm tay và giã từ...” (Thành phố, sớm xuân...). 

Đồng Hới, ngày 10-1-2011

H.T.A


-----------------

[1]. Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng, NXB Văn học, 2007.

[2]. Trần Đăng, Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: "Bây giờ gió gọi anh đi", http://www.baobinhdinh.com.vn/.

[3]. Hồ Thế Hà, Những khoảnh khắc đồng hiện (tiểu luận-phê bình), NXB Văn học, 2007, tr 33-34.




Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
17 Tháng Năm 20155:10 SA(Xem: 31800)
…Tôi bước lên những bậc thềm mịn rêu, bước chậm, sợ mình sẽ bị trượt ra sau, cái ngã ngửa chẳng khác nào cái rớt xuống trần gian đầy ngỡ ngàng của hai chàng Lưu Nguyễn. Tôi chưa muốn thế, tôi đang muốn sống cõi phi thực kia với từng rung động e dè chậm chậm, để nghe chạm vào cánh cổng đã hoen rỉ tháng năm, và dù nhẹ nhàng đến thế nào cũng sẽ ghê răng bởi tiếng rít của một cánh cửa lâu ngày không mở.
14 Tháng Năm 201511:28 CH(Xem: 31709)
Trăng đang vỡ trên ngọn đồi ký ức Bóng tim tôi vướng nhánh giao mùa Tiếng hát ai vỡ tràn đêm đắng Tôi vỡ vô vàn trong ánh trăng xanh
14 Tháng Năm 201510:01 CH(Xem: 30779)
Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu, Nguyễn Việt Thanh với lối viết nhẹ nhàng và sâu lắng sẽ đưa chúng ta trở về nông thôn Việt Nam bằng những “Ao làng”, “Nắm lá ngày Đoan ngọ”, và lối đánh bắt cá độc đáo của rất ít người và bây giờ cũng không còn ai sử dụng nữa đó là “Bơi dể”. Chúng tôi trân trọng gởi đến quí văn hữu và độc giả những tản văn của Nguyễn Việt Thanh.
14 Tháng Năm 20159:40 CH(Xem: 34773)
Chúng tôi lên Thăng Long Tết Ất Mùi, mặt hồ Dâm Đàm mỏng như ý nghĩ khoa cử trong đầu Kiệt. Kinh sư đầu triều Lý mang sắc đẹp bán khai dữ dội của những cánh rừng bàng chưa phát quang. Kiệt hay đứng ở bờ nước, mắt dõi theo những cuống sen già trôi quả quyết về hướng Cấm Đình. - Nay mai đỗ đầu tiến sĩ thì ngồi nhà mát ăn bát vàng.
14 Tháng Năm 20159:34 CH(Xem: 30910)
Trong số mười người chúng tôi bị bắt bởi chiến dịch khủng bố mùa thu tháng 9 năm 2008 thì Ông Nguyễn Kim Nhàn là người duy nhất hiện vẫn đang còn bị tù đày. Tôi thường gọi những người dân oan như ông, như chị Trần Ngọc Anh, chị Phạm Thị Lộc, vợ chồng chị Cấn Thị Thêu... là “dân oan hóa dân chủ” vì họ đã không chỉ dừng lại ở việc đòi quyền lợi chính đáng cho bản thân và gia đình mình, mà đã tham gia vào các công việc, các phong trào đấu tranh vì Nhân quyền, Tự do và Dân chủ.
14 Tháng Năm 20155:55 CH(Xem: 33760)
Là những người viết văn đã nhiều năm tham gia Hội Nhà Văn Việt Nam (HNVVN), đã góp sức xây dựng Hội qua thời chiến cũng như thời bình, đã đau xót trước sự xuống cấp ngày càng nghiêm trọng của Hội trong những năm gần đây và tích cực góp ý với Hội để khắc phục tình trạng ấy; đến hôm nay, nhận thấy tình trạng suy thoái của Hội đã trở nên không thể cứu vãn nếu không có sự thay đổi nhiều điều căn bản trong điều lệ và tổ chức của Hội để Hội thực sự là một tổ chức nghề nghiệp tập hợp những người viết muốn xây dựng một nền văn học Việt Nam đích thực, tự do, nhân bản;
14 Tháng Năm 20155:36 CH(Xem: 33949)
Ngày 05.05.2015 nhà văn Võ Thị Hảo đã tuyên bố từ bỏ hội Nhà văn Việt Nam, cùng ngày tổ chức này gạch tên 9 nhà văn khác đang sinh sống tại TP Hồ Chí Minh trong phiên họp bầu đại biểu đi dự đại hội toàn quốc. Dân Luận (DL) đã trao đổi với nhà văn Võ Thị Hảo (VTH) về vấn đề mà chị coi là một vụ Nhân Văn Giai Phẩm mới...
14 Tháng Năm 20153:44 CH(Xem: 36739)
Trong phiên bỏ phiếu bầu đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc diễn ra ở TP. HCM ngày 5/5, lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đề nghị những người tham dự gạch tên chín người sinh sống ở TP. HCM và tham gia Văn đoàn độc lập. Những tưởng hành động này là "đòn giáng mạnh" vào các hội viên của Văn đoàn độc lập, tuy nhiên nó đã gây một hiệu ứng ngược khi hàng loạt những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác Tuyên bố từ bỏ Hội nhà văn VN (DL)
13 Tháng Năm 20155:54 CH(Xem: 30752)
Với Nguyên Ngọc và Văn đoàn Độc lập, vấn đề còn nguyên. Làm gì với tự do đã giành lại sau khai trừ rồi ly khai? Làm gì với mục đích độc lập tách rời ra khỏi Hội? Ra khơi, lên đường, hay lo ngại “phạm pháp” sẽ khiến nhòa nhòa trong vận hành của hệ thống? Tháng 5-1954, hai chữ “Độc lập” thét vang trong lồng ngực của năm mươi ngàn binh sĩ chiến thắng trận Điên Biên, để cuối cùng là một nền độc lập hà khắc trong toàn trị. Tháng 5-2015, “vì một nền văn học Việt Nam tự do, nhân bản” in đậm trên trang web của Văn đoàn Độc lập. Công chúng trông chờ câu trả lời.
13 Tháng Năm 20154:31 SA(Xem: 31003)
Qua tháng tư rồi Anh có trở về ngày bình thường Như đi bác sĩ, làm tình và các thứ Mình lại hẹn nhau mùa điên năm sau