- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Tên chữ Hán của Hồ Quý Ly là 胡季犛 hay 胡季釐(厘)?

02 Tháng Mười Một 20141:53 SA(Xem: 40062)
Thành Thang Long
Thành Thăng Long-Hà Nội

       

                                                                                                  

           Hồ Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang vào  đời Hậu Hán thời Ngũ Đại (947 – 950) sang làm Thái thú lộ Diễn Châu (Nghệ An). Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột thuộc lộ này, làm  trại chủ đến đời thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại tỉnh Thanh Hóa, làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Huấn. Sau Hồ Quý Ly thay ngôi nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu và cải lại họ Hồ.[4] Theo Bùi Bá Kỳ viết trong Cáo nạn biểu [12] đã cho biết Quý Ly là con quan Kinh lược sứ đời Trần là Lê Quốc Kỳ [1]. Do đó trong trong sử sách Hồ Quý Ly còn được gọi là Lê Quý Ly.

           Tên chữ Hán của  Lê Quý Ly hay Hồ Qúy Ly theo thư tịch cổ Hán và Việt nói chung đều viết là 黎季犛 hay 胡季犛 và các sách sử học sau này đa số cũng viết như thế, chẳng hạn như trong Việt Nam sử Lược (1927) [8] của Trần Trọng Kim cũng viết là Hồ Quý Ly 胡季犛. Các chữ Hồ , Lê , Quý trong họ và tên của vua nhà Hồ nói chung về tự dạng không thay đổi, chỉ riêng chữ LY là có. Chúng tôi thấy trong văn bản chữ Nôm Thiên Nam ngữ Lục ngoại kỷ 天南語錄外紀 [5] (AB.478, khuyết danh, hql1khoảng thế kỷ 17), soạn giả này lại viết họ tên Hồ Quý Ly là  胡季 厘 (H.1), LY không viết là  mà là 厘. Xem thêm Giản yếu Hán Việt từ điển (1932) [1] của Đào Duy Anh ở mục từ Hồ, Hồ Quý Ly cũng thấy viết là 胡季釐 (theo từ thư Hán, là dạng khác của ). Có điều gì không ổn  về tự dạng?  Vua nhà Hồ tên là LY thật ra viết chữ Hán là hay ()? Đây có phải là hiện tượng đồng âm dị tự, hoặc còn  nguyên do nào khác? Từ trước đến nay, vấn đề này hình như chưa từng được bàn đến. Người viết thử tìm hiểu xem thực hư ra sao?


            Văn bản chữ Hán sớm nhất hiện còn liên quan đến họ tên Hồ Quý Ly có lẽ là ở bài Cáo nạn biểu của Bùi Bá Kỳ, họ ngoại của nhà Trần, làm quan đến ngũ phẩm và từng là một tỳ tướng của Trần Khát Chân, trong truyền bản này viết rõ tên Quý Ly là LY犛, đối chiếu nội dung bài biểu này trong Minh sử [2]明史, cũng thấy hql2chép là LY犛. Sau đến bộ Đại Việt sử Ký Toàn Thư  大  越  史  記  全   (bản Chính Hòa thứ 18, năm 1697) [10] , trong đó tên của vua nhà Hồ là  LY khắc là (H.2) nhưng về tự dạng không đúng dạng vì  ở phần trên, bên trái không phải là chữ mà là chữ , xem thêm bản ĐVSKTT khắc in sau bản Chính Hòa 18, là bản Quốc Tử Giám thời vua Tự Đức Triều Nguyễn (1848-1884) [3] cũng thấy cùng một dạng chữ.

 

             Tra Dị thể tự tự điển[4], thấy chữ có một dạng dị thể như sau: . So sánh tự dạng chữ LY từ ĐVSKTT và  chữ dị thể  ta thấy thực ra là cùng một dạng nhưng do kiểu chữ khắc in của ĐVSKTT nên có dị biệt đôi chút.  Khảo sát thêm các văn bản chữ Hán khác liên quan đến Hồ Quý Ly thì thấy đúng như vậy. Sách Truyền kì mạn lục 傳奇漫錄 (Bản chép tay R.424.NLVNPF-1263), bản này viết chữ LY theo dạng dị thể là . Xem thêm trong Quốc sử toản yếu: Nam sử toản yếu 國史纂要: 南史纂要. (R.112.NLVNPF-0115, bản đời Lê do nhà Thạc Đình 碩亭 Nguyễn Huy Oánh 阮輝瑩 tự khắc in); bản  Việt giám thông khảo 越鑑通考 (R.1663.NLVNPF-0116, đây có thể là bản chép tay từ bản năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) của Vũ Quỳnh) và bản Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự 大越史記捷綠總序 (R.2254.NLVNPF-0105, bản in đời Tây Sơn) thì ở các sách này chữ LY đều viết đúng dạng dị thể là . Đặc biệt ở  bản  Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 欽定越史通鑑綱目正編 (q.11-12) Quốc sử quán triều Nguyễn (R.544 . NLVNPF-0174-08), và  Đại Nam quốc sử diễn ca [5]大南國史演歌 của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái  (nlvnpf-0102, R.303, bản in năm 1870) chữ LY khắc chính thể là chứ không dùng dị thể.

          Ở văn bản chữ Nôm thì thấy, bản Nôm Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa [6]指南玉音解義 (khoảng thế hql 3kỷ 17) tuy không trực tiếp liên quan đến Hồ Quý Ly nhưng trong mục từ ly (mao) ngưu thì chữ LY 犛 (H.3)  khắc giống như dạng chữ ở ĐVSKTT nhưng thiếu nét 厂, chắc là do thợ khắc chữ sai sót (bản Nôm này khắc rất nhiều chữ Hán và Nôm sai) hoặc do cách viết “tục tự” của nhà Nho Việt xưa. Tìm hiểu kỹ thì trong Đại Việt lịch đại sử tổng luận 大越歷代史總論 (NLVNPF-0104, R.1744, là bài tổng luận về lịch sử Việt Nam từ khi khai thiên lập địa cho đến hết triều Lê, dĩ nhiên bản này chỉ xuất hiện sau Lê)[7] thì tất cả những chữ LY đều được người chép tay viết cả 2hql 4 dạng như ĐVSKTT và CNNÂGN (H.4), thế thì đã rõ, chữ LY trong CNNÂGN đơn giản là một kiểu tục tự (chữ thông tục trái với chính tự) của chữ  mà thôi. Ở bản Nôm  Việt sử diễn nghĩa tứ tự ca [8]越史 衍 義 四 字 歌  thấy chữ LY viết đúng dạng 犛.

          Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: “ mao:  Mao ngưu 犛牛, một loài trâu đuôi rất dài, ngày xưa dùng làm ngù cờ”. Cũng đọc là chữ ly.” Với một nghĩa không mấy đẹp liên quan đến loài trâu. Tục ngữ, ca dao  người Việt thường nói: “Khổ như trâu”, “Tưởng rằng danh giá những gì, Kiếp trâu khốn nạn vẫn là kiếp trâu” và người Hán có thành ngữ như: “Ngưu đầu mã diện” (đầu trâu mặt ngựa, quỷ sứ âm ty), “Ngưu nhân mã nhân (người làm việc nhu trâu, ngựa; bọn nô lệ), …thật khó hiểu tại sao thân phụ của Hồ Quý Ly vốn là Kinh lược sứ họ Lê lại đặt tên cho con mình là LY trái với truyền thống đặt tên của quan lại xưa, thường chọn tên chữ có ý nghĩa hay, đẹp, hiếm? Khảo sát tên  của các bậc vua chúa trước khi sáng lập các triều đại độc lập tự chủ trong chính sử Việt Nam xưa nay như Ngô Quyền 權, Đinh Bộ Lĩnh , Lê Hoàn,  Lý Công Uẩn 公蘊, Trần Cảnh 煚, Lê Lợi 利, Mạc Đăng Dung 登庸, Trịnh Kiểm 檢, Nguyễn Hoàng , Nguyễn Huệ , Nguyễn Phúc Ánh 福暎, đều không hề thấy một tên chữ nào mang nghĩa xấu, không tốt cả. Nhưng chỉ riêng mỗi tên của Hồ Quý Ly, người sáng lập nên vương triều Hồ lại thật bất hạnh vì được viết bằng chữ LY ! Thế mà xưa nay sử gia, văn nhân cứ thản nhiên viết mà không chút băn khoăn, hoài nghi! Phải chăng có một uẩn khúc gì? Như  trên đã dẫn Thiên Nam ngữ Lục, đã viết tên vua nhà Hồ là  LY , theo Khang Hy tự điển  có các nghĩa chính là Phúc, Sửa sang, Cai trị. Với ý nghĩa hay, tốt như vậy, thực ra mới xứng đáng với tên của con trai quan Kinh lược sứ. Nhưng tại sao lại xuất hiện 2 dạng chữ LY ?  Đây là cách viết đồng âm dị tự?  Tuy về nguyên tắc, tự dạng có thể dùng thay nhau theo kiểu đồng âm dị tự, nhưng nếu là tên của người dân bình thường thì có thể và không có gì đáng nói, đằng này đây lại là tên của vua nhà Hồ,  việc dùng một chữ đồng âm dị tự mang nghĩa xấu, tầm thường để viết tên của vua nhà Hồ chắc chắn khó lòng xảy ra và không thể nào qua mắt được Hồ Quý Ly lẫn các quan lại thâm Nho, nếu bị phát hiện sẽ mang tội  khi quân! Như vậy, cần phải tìm một hướng khác để lý giải cho hiện tượng này.

 

          Theo quan điểm chính thống của vua quan các triều đại từ nhà Hậu Lê đến nhà Nguyễn, cũng như dư luận dân gian  thì Hồ Quý Ly bị lên án, phỉ nhổ, gọi Hồ Quý Ly là “Hồ tặc”… bằng chứng rõ nhất là Nguyễn Trãi [11] đã viết về Hồ Quý Ly và nhà Hồ như sau: họ Hồ chính sự phiền hà. Để trong nước lòng dân oán hận(Đại cáo bình Ngô), “họ Hồ thất đức”; “họ Hồ dối trời gạt dân”; “cướp nước hiếp lòng dân” (Quân trung từ mệnh tập) và sử thần Ngô Sĩ Liên phê phán Hồ Quý Ly là: “Bọn loạn thần tặc tử…”,        “ Quý Ly đến đây tội ác đã chất đầy rồi” (ĐVSKTT). Trong sách Những chuyện lạ thi cử thời xưa [6], có kể một chuyện lạ như sau, vào khoa thi Hội năm Canh Thân, niên hiệu Chính Hòa thứ I (1680), có hai cặp thầy trò và cha con dự thi. Đó là Vũ Đình Phúc với người con là Vũ Đình Thiều và học trò của ông Phúc là Phạm Hữu Dung nhưng trong khoa thi Hội này, đầu văn sách có câu hỏi về nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly, thí sinh phải tuân theo quan niệm chính thống của tầng lớp nho sĩ và xã hội đương thời, khi viết tên Hồ Quý Ly, phải biết chọn chữ như thế nào, để biểu thị sự khinh bỉ, chê bai nhân vật lịch sử này, theo đúng quan điểm của người ra đề. Ông Thiều và ông Dung dùng chữ “ Ngưu” là “ Trâu” và khung cả bốn phía ngoài, tượng trưng cho cái chuồng để tạo thành chữ “Ly”. Còn ông Phúc thì vẫn viết đúng chữ Ly và cũng khung lại bên ngoài. Kết quả thật bất ngờ, đến kỳ xướng danh hai ông Vũ Đình Thiều (1658-1727) và Phạm Hữu Dung (1652-?) đều đỗ tiến sĩ. Còn thầy học Vũ Đình Phúc thị bị đánh hỏng, chỉ vì chữ “Ly” tên của nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly không viết là “Ngưu”, có nghĩa là “con trâu”! Như thế, qua câu chuyện này ta thấy rõ việc viết tên của Hồ Quý Ly vào năm  khoa thi Hội năm 1680 là  một cách chơi chữ nhằm khinh bỉ, chê bai. Chi tiết về chữ NGƯU (trâu) đã góp phần lý giải cho sự xuất hiện phổ biến chữ (có chữ ) trong các sách sử từ ĐVSKTT (Chính Hòa thứ 18) và các sách hql 5khác sau này. Theo suy luận của chúng tôi, rất có khả năng tên của vua nhà Hồ thật ra nguyên gốc viết là  LY hay (có chữ chứ không phải là ) và  bản Nôm Thiên Nam ngữ Lục có thể đã dựa vào một nguồn thư tịch (trung thành với chữ gốc thời Hồ) khác với ĐVSKTT  để phục nguyên lại tên chữ của Hồ Quý Ly. Tuy nhiên để xác minh lập luận này cần phải có thêm chứng từ khách quan khác có giá trị thuyết phục. Người viết đã truy tìm dấu vết tên của vua nhà Hồ trong thư tịch Trung Quốc và nhận thấy, ngoài chữ LY (tên của vua nhà Hồ) xuất hiện phổ biến trong các sách quan trọng như Minh sử, Bình An Nam chiếu, Bình định giao Nam lục, Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư,chúng tôi đã tìm thấy trong sách Đại sử 岱史 [9] là sách địa phương chí của Tra Chí Long 查志隆 (biên soạn vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 14, năm 1586), Nghiêu sơn đường ngoại kỷ 堯山堂外紀[9] là sách thông sử của Tưởng Nhất Quỳ蒋一葵 (đỗ Tiến sĩ năm Vạn Lịch thứ 25 (1594) đời Minh) Xích nhã 赤雅[10] là sách ghi chép về phong tục của dân tộc Quảng Tây của Quảng Lộ 鄺露 (1602-1648, người Quảng Đông, đời Minh), khi viết về vua nhà Hồ đã viết rõ ràng là Lê Quý Ly 黎季(H.5), LY chứ không phải là LY . Không thể biết nguồn thông tin nào khiến cho Tra Chí Long, Tưởng Nhất Quỳ và Quảng Lộ đã viết tên của vua nhà Hồ khác với các sách vở chính thống của nhà Minh nhưng chắc chắn không thể lấy thông tin từ TNNL Có thể gián tiếp từ Lưỡng Quảng, biên giới Việt Nam và Trung Quốc họ đã tiếp cận được thông tin chân thật hơn về Hồ Quý Ly? Dù sao sự khác thường này cũng là một dấu chứng quan trọng (3 tác phẩm này ra đời vào đời Minh, khoảng thế kỷ 16, 17) xác nhận cho TNNL không phải là một hiện tượng “chữ tác đánh chữ tộ” hay  là kiểu “đồng âm dị tự” tùy tiện và như thế tên vua nhà Hồ là LY hay có khả năng là một chữ nguyên gốc đời Hồ. Tra Khang Hy tự điển [2]: “: [廣韻]里之切, [集韻], [韻會] 陵之切,音釐.義同 (Ly: (Quảng vận) lí chi thiết, (Tập vận), (Vận hội) lăng chi thiết, âm như ly, nghĩa đồng ), vậy 2 chữ là đồng âm, đồng nghĩa nhưng khác tự dạng, về nguyên tắc có khả năng dùng thông nhau. Như đã dẫn về câu chuyện văn tự liên quan đến tên của vua nhà Hồ ở khoa thi Hội năm 1680, về lô gích, chữ chính là chữ gốc, chữ là chữ phái sinh theo diễn biến 釐 -> . Từ đây có thể suy luận như sau: Khả năng thứ nhất là,  từ chữ LY gốc, cổ nhân thời Trần - Hồ do bất bình, khinh ghét Hồ Quý Ly, một gian thần cướp nước hại dân nên đã cố ý dùng chữ (đồng âm, đồng nghĩa với   ly 釐) có chứa chữ ngưu (trâu) ở trong, hàm ý miệt thị như đồ súc vật.  Trong Minh sử (biên soạn khoảng đời Thanh), có thuật lại vụ Bùi Bá Kỳ, cựu thần họ ngoại nhà Trần sau khi bị Hồ Quý Ly soán ngôi, đã đến tận cửa cung nhà Minh khóc lóc dâng bài biểu  Cáo nạn cho vua Minh Thành tổ để xin cầu viện giúp khôi phục cơ nghiệp nhà Trần, ta thấy tên của vua nhà Hồ được viết là Quý Ly 季犛. Vậy phải chăng Bùi Bá Kỳ do căm phẫn nên cố ý dùng chữ thay cho chữ như một cách tỏ ý khinh miệt Hồ Quý Ly? Một kiểu chơi chữ rất sắc bén, thâm thúy! Nhưng đây chỉ là suy đoán chứ không có chứng cứ gì vì chưa chắc bài Cáo nạn còn nguyên dạng chữ gốc của Bùi Bá Kỳ qua truyền bản ở Việt Nam cũng như khi được chép lại trong Minh sử . Khả năng thứ hai sau đây có lẽ hợp tình lý và thuyết phục hơn, sự thật lịch sử cho thấy tướng Tống Binh Quốc Công Chu Năng  đã thay vua nhà Minh với danh nghĩa “Phù Trần diệt Hồ” công bố bảng văn cáo những tội của vua nhà Hồ như: ”cướp ngôi, giết vua và tông thất nhà Trần, coi nước và nhân dân như thù địch” và bài chiếu của Minh Thành Tổ (sau khi đánh bại nhà Hồ) đã luận tội danh Hồ Quý Ly: “Nó tỏ ra lừa thánh, khinh trời, không có luân lý gì nữa”…[4] Cha con Hồ Quý Ly bị bại trận rồi sau bị quân Minh bắt giam cầm, lưu đày tận Kim Lăng (Trung Quốc), trong bối cảnh này rất có thể vua quan thiên triều Đại Minh đã có chủ ý chơi chữ khi cố tình dùng chữ (có chữ ngưu ) để dùng thay chữ (dựa theo vận thư, đồng âm, nghĩa với ) là tên chữ gốc của vua nhà Hồ  như một sự nhạo báng, sỉ nhục Hồ Quý Ly chỉ là lũ trâu bò nô lệ mà thôi, như thế thì quả là một lối chơi chữ quá thâm hiểm của người Hán! Kiểu chơi chữ này,  một lần nữa lại được cá sử gia, văn nhân Đại Việt từ Hậu Lê đến Nguyễn với quan điểm chính thống khinh miệt nhà Hồ nên đã dùng theo như một sự đồng lõa. Tóm lại, tên vua nhà Hồ là LY hay có khả năng là một chữ nguyên gốc đời Hồ,  sau đó vì lý do chính trị, tâm lý nên người xưa đã cố ý dùng chữ viết thay cho nhưng hàm ý không tốt, khinh miệt.

 

          Gần đây, nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ, một chuyên gia nổi tiếng về chữ húy Việt Nam đã hầu như xác nhận chữ húy vua nhà Hồ là LY, mặc dù ông chưa thật sự công bố một chuyên khảohql6 nghiên cứu khoa học nào trên sách, báo nhưng qua các bài viết gửi trên mạng truyền thông internet, Ông Ngô Đức Thọ (NĐT) đã có chủ  ý như vậy khi viết như sau: Sau khi xuất bản cuốn Nghiên cứu chữ huý Việt Nam... Sau đó, trong khi nghiên cứu niên đại của sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa tôi đã phát hiện được chữ viết kiêng huý tiểu tự (tên trước khi làm vua) của Hồ Hán Thương, Sau đó trong khi hoàn thành bản thảo công trình nghiên cứu văn bản học tôi chọn việc giải mã niên đại CNNÂ để thuyết minh phương pháp vận dụng tị huý học vào việc nghiên cứu văn bản Hán Nôm, tôi đã đưa thêm cả phát hiện và khảo chứng về chữ Ly là tên huý của Hồ Quý Ly nữa. Kể như hoàn chỉnh thêm được một chương về Chữ huý thời Hồ chưa  có trong cuốn sách đã công bố. “ (Bổ sung nghiên cứu chữ húy thời Trần: Trinh& Thiên )[11] Chữ huý của nhà Hồ mà tác giả nói, đó là chữ LY trong Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa qua mục từ ly (mao) ngưu, Ngô Đức Thọ còn viết trong Kẻ Chợ - Kattigara xa xăm thân yêu [12] như sau: “9. … cả chữ kiêng huý Hồ Quý Ly cũng được tìm thấy (Chỉ nam ngọc âm,  5b)” cùng với ghi chú trong bài viết (xem hình). Sự thật có phải như NĐT đã xác nhận không? Mấu chốt quan trọng khiến cho Gs Ngô Đức Thọ tin tưởng có chữ húy nhà Hồ chỉ là dựa vào hiện tượng chữ khắc in lạ thường xuất hiện trong văn bản CNNÂGN với chữ LY khắc giống dạng chữ  ở ĐVSKTT  nhưng thiếu nét 厂[13], trùng tên Hồ Quý Ly. Chắc hẳn NĐT xác định nó là một chữ viết húy Ngự danh, (tên vua nhà Hồ) kiểu khuyết bút (lược nét) như phép kỵ húy triều Trần [3], nhưng  nếu ông từng xem bản Đại Việt lịch đại sử tổng luận (bản này chắc chắn có niên đại muộn hơn ĐVSKTT và  CNNÂGN) mà người viết đã dẫn ở trên, trong sách này, chữ LY viết cả 2 dạng như trong ĐVSKTT và CNNÂGN, 2 tự dạng này đã trở thành một bằng chứng quan trọng để phủ nhận chữ LY của CNNÂGN là  chữ viết húy vua nhà Hồ mà thật ra chỉ đơn giản là một dạng viết tục tự của nhà Nho xưa. Chưa kể chữ LY , theo luận cứ của chúng tôi chỉ là một chữ dùng thay cho chữ 釐(chữ gốc tên của Hồ Quý Ly) theo ý đồ chính trị nhằm hạ thấp nhân cách của vua nhà Hồ.

 

          Hồ Quý Ly, người sáng lập ra một triều đại mới là nhà Hồ, là vua của nước Đại Ngu, thế mà cái tên LY của ông, lại được các sử gia Trung Quốc lẫn Việt Nam xưa kia đã viết bằng một chữ Hán có ý nghĩa tầm thường, xấu liên quan  loài trâu như chữ !  Thân phụ Hồ Quý Ly là Lê Quốc Kỳ, vốn dòng quan lại quý tộc, từng giữ chức Kinh lược sứ triều Trần, dĩ nhiên cũng là một bậc túc Nho, không thể nào chọn một chữ LY như vậy để đặt tên cho con trai mình. Trong lịch sử, tên nhà vua có thể viết khác đi ở trường hợp như để ngoại giao nhà vua có thể thay tên giả hoặc do lệnh kiêng húy tên vua, chứ không thấy hiện tượng tùy tiện dùng chữ khác thay chữ gốc tên của vua, nhất là lại dùng một chữ mang nghĩa xấu dễ dẫn đến họa sát thân vì phạm thượng. Rất may, thư tịch còn để lại chứng cứ về một cách viết khác của tên vua nhà Hồ đó là sách Đại sử, Nghiêu sơn đường ngoại kỷ, Xích nhã (Trung Quốc) và Thiên Nam ngữ lục (Việt Nam) với chữ LY viết là hay 厘. Đây là một chữ mang nghĩa tốt đẹp hơn chữ vì vậy chúng tôi cho rằng chữ LY  này mới đích thực là tên của Vua nhà Hồ,  rồi sau do biến động của lịch sử, chữ đã xảy ra diễn biến 釐 -> thông qua một dụng ý văn tự của một người hay tập thể nhằm thỏa mãn mục đích riêng.

 

          Do đó, qua khảo chứng này, rất có thể người viết đã phát hiện ra tên của vua nhà Hồ là LY, nguyên gốc viết chữ Hán là  () chứ không phải là chữ như trong thư tịch Hoa và Việt xưa nay. Qua đó, vừa  phục nguyên lại chữ viết khai sinh họ tên của Hồ (Lê) Quý Ly là 胡 (黎)季釐 trong sử sách, gia phả họ Hồ từ nay về sau và cũng là vừa khôi phục lại danh dự, nhân cách của một nhân vật lịch sử nổi tiếng suốt bao thể kỷ qua, đã chịu oan khuất trong bóng tối khi bị sỉ nhục bằng một lối chơi chữ đầy ác ý, thâm hiểm của người xưa mà không ai hay biết. Nhiều khả năng tác giả của lối chơi chữ tinh ma để hạ nhục Hồ Quý Ly này chính là vua quan nhà Minh trên quan điểm, thái độ về chính trị và tâm lý cao ngạo, khinh miệt của nước thiên triều đối với nước phụ thuộc, qua chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” mà thực chất là âm mưu xâm lược, thôn tính Việt Nam.

 


ĐINH VĂN TUẤN
Biên Hòa ngày 24 tháng 3 năm 2012

               

 

Tài liệu tham khảo chính  

  1. Đào Duy Anh, Giản Yếu Hán Việt từ điển,. NXB Tiếng Dân. Huế 1932
  2. Khang Hy tự điển , Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1997
  3. Ngô Đức Thọ. Chữ húy Việt Nam qua các triều đại,. NXB Văn Hóa 1997
  4. Nguyễn Danh Phiệt, Hồ Quý Ly, Viện Sử Học & NXB Văn Hóa – Thông Tin , Hà Nội 1997
  5. Nguyễn Thị Lâm (Phiên chú), Thiên Nam ngữ lục (thơ Nôm), NXB văn học, 2001
  6. Quốc Chấn, Những chuyện lạ thi cử thời xưa, NXB Thanh Hóa, 2006
  7. Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, NXB Đuốc Tuệ. Hà Nội 1942
  8. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (1919), Trung Tâm Học liệu tái bản 1971
  9. Tục tu tứ khố toàn thư, Sử bộ - Địa Lý loại. 3. Đại sử, Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã, 2002
  10. Viện Khoa Học Xã Hội,  Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1993
  11. Viện sử học, Nguyễn Trãi toàn tập. NXB  Khoa học Xã hội,  Hà Nội 1976
  12. Viện Văn học: Thơ Văn Lý - Trần, tập 111, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978

 

(Đăng lần đầu trên Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 7. 2012)

 

 

 

 



[1] Nhưng theo Minh sử , tên của Kinh Lược sứ là Lê Quốc Mao 黎國髦 chứ không phải là Lê Quốc Kỳ 黎國耆 như truyền bản ở VN.

[2] Nguồn, http://www.archive.org/details/02079216.cn

[3] Nguồn, http://nomfoundation.org/nom-project/History-of-Greater-Vietnam

[5] Dự án số hóa kho tàng thư tịch cổ Văn hiến Hán Nôm , website: http://lib.nomfoundation.org/collection/1/

[6] Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, bản sao chụp  từ  bản ở Thư  viện Hội  Châu  Á, do anh Lê Sơn Thanh cung cấp.

[7] http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/114/

[9] Nguồn, http://www.archive.org/details/02079216.cn 

[11] Ngô Đức Thọ Blog:  http://vn.360plus.yahoo.com/ngoducthohannom/article?mid=357)

[12] Nguồn: www.viet-studies.info/NgoDucTho_KeCho.pdf

[13] Riêng về tên húy Hồ Hán Thương là HỎA 火, 踝 thì sau khi đọc bài tham luận Thông tin mới nhất về Chỉ Nam ngọc âm cũng của Ngô Đức Thọ. (Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm Ngày 12-13 tháng 11 năm 2004),  người viết (bút danh là Đinh Tuấn) cùng với các thành viên (huongho, Khúc Thần…) trong Diễn đàn Viện Việt Học :  http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,32369,  đã mở ra chủ đề: Chữ huý   trong Chỉ Nam Ngọc Âm ? để bàn thảo và xem xét khả năng có  chữ húy nhà Hồ trong CNNÂGN hay không?  Kết quả là không. Do khuôn khổ bài viết, người viết không tiện đi sâu về tên húy của Hồ Hán Thương trong CNNÂGN nên dự định sẽ viết một bài riêng về tên húy của Hồ Hán Thương. 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 460)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
15 Tháng Tư 20248:23 SA(Xem: 748)
Thế nào gọi là tiểu-thuyết-mới (Nouveau Roman). Đó là câu hỏi của những người chuyên viết về tiểu thuyết và những người thường đọc tiểu thuyết. Giữa hậu bán thế kỷ XX; một phong trào văn chương thuộc thế hệ trẻ Pháp như Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Claud Simon, Jacque Derrida, Nathalie Sarraute, Pierre Bourdier…được tung ra giữa “thị trường” văn học thời ấy vào đầu thập niên 1962,cái gọi là Tiểu-Thuyết-Mới, lập tức phong trào nầy được khám phá ngay, không những ở Pháp mà ngay một vài nước khác trên thế giới,Việt Nam ta cũng chịu ảnh hưởng phong trào thời thượng lúc đó, kể cả bộ môn nghệ thuật khác, tuy không rực rở nhưng đã hội nhập được với trào lưu thời bấy giờ…
13 Tháng Hai 202411:57 CH(Xem: 3255)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.
07 Tháng Hai 20243:34 SA(Xem: 2648)
Khi tìm đọc văn học chiến tranh (giai đoạn 1954-1975) tôi bắt gặp rất nhiều lần lời giới thiệu ngắn tên tuổi, và các tác phẩm của nhà văn Nguyên Vũ. Kể từ đó, tôi luôn tìm Nguyên Vũ để đọc, song dường như không có tác phẩm nào của ông được đưa lên các trạng mạng, hay các thư viện điện tử. Hôm rồi, thật may mắn, đang nghiền ngẫm về cố nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tình cờ tôi bắt gặp: Mây Trên Đỉnh Núi, truyện dài gồm 20 chương của Nguyên Vũ. Đây có lẽ là truyện dài đầu tay, và ít được nhắc đến của ông. Cũng định thử một vài trang, rồi lúc nào đó sẽ đọc tiếp, nhưng bập vào tôi không thể dứt ra được, và đọc một mạch ngay nơi làm việc. Sự hấp dẫn, sinh động ấy, không hẳn bởi chỉ nội dung, mà còn do bố cục, nghệ thuật đan xen những tình tiết câu chuyện...
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 3330)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 3150)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
25 Tháng Mười Hai 202310:41 CH(Xem: 2798)
Hàng năm vào dịp cuối năm, người Kitô hữu đón mừng sự kiện Chúa Giêsu giáng trần, mặc lấy thân xác con người để chuộc tội nhân loại, tội tổ tông đã lưu truyền từ Adam - thuỷ tổ loài người theo dân Do Thái - lúc còn ở địa đàng đã ăn phải trái cấm của Thiên Chúa do Eve dụ dỗ.
22 Tháng Mười Hai 202312:10 CH(Xem: 3823)
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối, Tìm Quê hương trên vết máu giữa đồng hoang: Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi, Từng con sông từng huyết lệ lan tràn…
07 Tháng Mười Một 20236:34 SA(Xem: 4379)
“…câu chuyện giáo sĩ Alexandre de Rhodes là câu chuyện cũ đã hơn 300 năm trước. Ông không sáng chế ra chuyện đánh vần tiếng Việt ra mẫu tự Bồ. Tôi nghĩ ông là một giáo sĩ tận tụy với nghiệp vụ truyền giáo, chỉ có điều kiến thức quá giới hạn của ông về văn hóa tôn giáo và con người Việt Nam làm tôi bực mình, và thèm khát một ngày mà những bất cập như vậy không còn sót lại nơi một giáo sĩ dù với đức tin nào. Tuy nhiên, phê phán nặng nề một giáo sĩ 300 năm trước là điều không nên, khi mà các giáo sĩ nói chung bấy giờ một phần vì giới hạn kiến thức, không có truyền thống kính trọng văn hóa địa phương. Nhưng ta tự nguyện tự lãnh một cái ơn tày đình với những giáo sĩ như De Rhodes cũng là chuyện không căn cứ. Có lẽ thỉnh thỏang ta nên đọc lại Phép Giảng Tám Ngày của ông ta để có một viễn cận phải chăng với câu chuyện.” (Mai Kim Ngọc).
01 Tháng Mười Một 202312:55 SA(Xem: 4237)
Hun Sen đã chính thức chuyển quyền cho con từ ngày 22/8/2023. Tuy Hun Manet là Thủ tướng mới nhưng Hun Sen vẫn có một ảnh hưởng gần như tuyệt đối từ phía sau hậu trường. Hun Sen viết trên trang Facebook – “Đây chưa phải là kết thúc. Tôi còn tiếp tục phục vụ ở những cương vị khác ít nhất cũng tới năm 2033” (tức là mười năm nữa, lúc đó Hun Sen 81 tuổi). Tìm hiểu về giới lãnh đạo bao gồm hai thế hệ Cha và Con của chính trường Cam Bốt hiện nay và ít ra trong 10 năm tới thiết nghĩ là điều rất cần thiết.