- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“PHIẾN CỘNG” TRONG DINH GIA LONG [The Communist Rebels in the Gia Long Palace] (Phần I )

04 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 54309)


dinh_gia_long1

Một trong những vấn nạn, nếu không phải nghi án, lịch sử cận đại còn gây nhiều tranh luận là vấn đề âm mưu ve vãn [flirtation] Cộng Sản Hà Nội của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1897-1963) trong hai năm 1962-1963. Nhiều học giả thế giới đã cố gắng đưa ra những giải thích về vấn đề này. Người cho rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ [no longer be rational] nữa trước áp lực Mỹ. (1) Người cho rằng họ Ngô chỉ muốn blackmail hay chơi một ván bài poker với Mỹ. (2) Người cho rằng họ Ngô thực sự muốn nói chuyện với miền Bắc, (3) và nếu không có cuộc đảo chính 1/11/1963, Cộng Sản đã chiếm miền Nam vào cuối năm 1963. Bi thảm cho họ Ngô là những người tin rằng họ Ngô muốn dâng miền Nam cho Cộng Sản Bắc Việt–đặc biệt là Đại sứ Henry Cabot Lodge–lại có quyết định chung cuộc số phận họ Ngô.

Vấn đề ve vãn Cộng Sản này khá phức tạp. Nó không hạn chế trong phạm vi quốc nội mà còn bị chi phối, hoặc ít nữa ảnh hưởng, bởi các trào lưu chính trị và chiến lược thế giới của nhiều hơn một ngoại bang. Ngoài Liên bang Mỹ, Liên Sô Nga và Trung Hoa Cộng Hòa Nhân Dân Quốc [Trung Cộng]–ba quốc gia ảnh hưởng sâu đậm trên nội tình Việt Nam–còn có những quốc gia khác như Pháp, India [Ấn Độ], Poland [Ba Lan] hay vương quốc Ki-tô Vatican.

Trong biên khảo Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 dưới bút danh Chính Đạo, và tâm bút Ngàn Năm Soi Mặt, ký tên Nguyên Vũ, chúng tôi đã lược nhắc đến vấn nạn “Phiến Cộng trong Dinh Gia Long.” (4) Bài viết này–được tu chỉnh lại trong thời gian tác giả soạn thảo tập Lâu Đài Trên Bãi Cát, dựa trên tiểu luận Master’s Degree, “The Vietnam War: Lost or Won?,” tại Đại học Wisconsin-Eau Claire năm 1977, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư Richard D. Coy—xin được coi như đóng góp thêm vào vấn nạn trên. Kết luận của chúng tôi là chưa đủ tư liệu để biết rõ mục đích của anh em họ Ngô trong việc ve vãn Cộng Sản giữa lúc áp lực Mỹ ngày một nặng từ năm 1960. Dẫu vậy, có thể tạm thời kết luận rằng họ Ngô, qua thành tích dĩ vãng, khó thể có ý định tìm hòa bình cho tương lai của đất nước và dân tộc. Hành động của họ Ngô có thể là một thứ quyết định, hoặc đe dọa, “ăn không được thì đạp đổ” để cảnh giác người Mỹ—hoặc một cái tát xiếc lãnh tụ Đảng Cộng Hòa mà anh em họ Ngô đoán biết đang có sứ mệnh lật đổ họ. Cũng có thể nó được phóng đại lên để Đại sứ Lodge ép Tổng Giám mục Ngô Đình Thục (1897-1984) cùng vợ chồng Ngô Đình Nhu-Trần Thị Lệ Xuân ra đi, khởi đầu một thí nghiệm mới, hy vọng tìm ra một chính phủ chống Cộng hữu hiệu hơn.

 

I. TIẾP XÚC VỚI CỘNG SẢN:

 

Không ai có thể chối cãi việc anh em họ Ngô tiếp xúc Cộng Sản. Nếu thời điểm họ Ngô bắt đầu ve vãn Cộng Sản còn gây bàn cãi, đầu mối bằng xương, bằng thịt xuất hiện tại ngay chính Dinh Gia Long sáng ngày 2/9/1963 là Mieczylslaw Maneli, Trưởng đoàn Poland trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (ICC, sẽ dẫn UBQT/ KSĐC). Cố vấn Ngô Đình Nhu (1910-1963) cũng tuyên bố với viên chức tình báo Mỹ, và ngay cả các Tướng miền Nam, nhiều lần, rằng ông ta—ngoài Maneli—từng tiếp xúc Việt Cộng.(5) Tình báo Mỹ, Pháp và Việt đều nói về buổi họp mặt bí mật với Phạm Hùng (Phó Thủ tướng Bắc Việt, đặc trách kế hoạch thống nhất hai miền Nam-Bắc từ năm 1958). Một số người, kể cả Trung tá Nguyễn Văn Châu, còn tiết lộ, dù chẳng trưng được bằng cớ có thể kiểm chứng nào, những cuộc tiếp xúc giữa Nhu và cán bộ CSBV ngay tại Sài Gòn vào hạ tuần tháng 10/1963.(6)

Đích thân Tổng thống Diệm, theo Trần Văn Dĩnh—một cựu thông ngôn tại Tòa lãnh sự Nhật ở Huế, có liên hệ với Diệm từ năm 1942, và xử lý thường vụ Tòa Đại sứ Việt Nam tại Oat-shinh-tân từ ngày 22/8/1963, đang trên đường qua India nhận nhiệm sở mới—cũng sai Dĩnh tiếp xúc một cán bộ cao cấp của Hà Nội ở New Dehli vào khoảng trung tuần tháng 11/1963.(7)

 

A. NHỮNG ĐẦU MỐI:

Có nhiều đầu mối Cộng Sản mà Nhu tiếp xúc hay có tin đã tiếp xúc.

 

1. Mieczylslaw Maneli:

Từ mùa Xuân 1963, theo Maneli, nhiều nhà ngoại giao đã yêu cầu Maneli gặp Nhu. Trong số này có Đại sứ Pháp Roger Lalouette, Đại sứ India (Ấn Độ) trong UBQT/KSĐC, Ramchundur Goburdhun, Đại sứ Italia (Ý) Giovanni d'Orlandi và tân Đặc sứ Vatican (Tòa thánh La Mã) Salvatore d'Asta. Họ cho biết đã nói với Nhu về Maneli, và Nhu ngỏ ý muốn gặp. Tối Chủ Nhật, 25/8, Maneli được giới thiệu với Nhu trong buổi tiếp tân của Trương Công Cừu, vừa để ra mắt ngoại giao đoàn nhân dịp được cử thay Vũ Văn Mẫu làm Ngoại trưởng, vừa đón tiếp Đại sứ Lodge.(8) Ngay sau lần gặp sơ khởi này, Maneli vội báo cáo về Warsaw, đồng thời thông báo với Đại sứ Liên Sô Suren A. Tovmassian ở Hà Nội và Hà Văn Lâu, Trưởng đoàn VNDCCH tại UBQT/KSĐC. Lâu và Tovmassian, theo Maneli, tán thành. Điều Maneli không nói rõ trong hồi ký là từ cuối tháng 8/1963 tình báo Mỹ đã biết về hành vi “bí mật ai cũng biết” của đại biểu Poland. Qua ngày 2/9, Nhu công khai tiếp Maneli tại Dinh Gia Long. Sau đó, Maneli ra Hà Nội báo cáo. Nhưng Warsaw đột ngột cho lệnh Maneli ngừng gặp Nhu.(9)

Ngay chiều 2/9, Cố vấn Nhu nhìn nhận với Lodge rằng mới gặp Maneli hôm đó. Theo Nhu, Maneli hỏi có thể báo cáo gì với Phạm Văn Đồng về những lời tuyên bố của Charles de Gaulle (ngày 29/8/1963), và Hồ Chí Minh (tháng 8/1963 hoặc ngày 29/5/1963). Nhu trả lời: “Không.”(10)

Ngày 2/9/1963 này, mật báo viên của tình báo Mỹ–người từng tiết lộ tin Maneli gặp Nhu tối 25/8 từ ngày 30/8–nhận xét rằng việc Maneli và nhân viên Pháp (không phải cá nhân Lalouette) làm trung gian cho Nhu và Phạm Văn Đồng là một thứ bí mật chẳng dấu được ai (open secret) trong giới ngoại giao Sài Gòn đã nhiều tháng. Mật báo viên này cũng được Maneli nhờ giới thiệu với Nhu nhưng từ chối.(11)

Bốn ngày sau, chiều 6/9, Nhu lại xác nhận với viên chức CIA là d'Orlandi và Goburdhun đã nhiều lần yêu cầu Nhu gặp Maneli. Ngày 2/9, theo Nhu, Maneli khuyên Nhu nên lợi dụng những lời tuyên bố của Charles de Gaulle và Hồ để thương thuyết với Hà Nội. Maneli nói đã được Phạm Văn Đồng ủy quyền làm trung gian [authorized by Pham Van Dong to act as intermediary]. Nhu trả lời Maneli rằng lời tuyên bố của de Gaulle rất “hấp dẫn” [interesting], nhưng chỉ những người thực sự chiến đấu mới có quyền nói và hành động. Nam Việt Nam liên kết với Mỹ và sẽ là điều vô luân khi đơn phương dò dẫm sau lưng người Mỹ. Vấn đề hiệp thương bất lợi cho tinh thần chiến đấu cũng như sự thông suốt về chính trị của dân chúng miền Nam. Nhu khẳng định không thương thuyết với Hà Nội, chỉ tiếp xúc Việt Cọng miền Nam. Nhu còn nói không có đường dây bí mật nào với miền Bắc, nhưng Maneli và Goburdhun lúc nào cũng sẵn sàng.(12)

Như thế, đích miệng Nhu hai lần thú nhận từng gặp Maneli, người tự nhận là sứ giả của Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Bắc Việt—một hành động phạm pháp cũng như đi ngược lại quốc sách chống Cộng.

Ngày 16/9, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm mật báo với Mỹ rằng các Tướng nóng lòng làm đảo chính hơn khi thấy thêm nhiều chứng cớ về việc Nhu muốn thương thuyết với miền Bắc. [The Generals are . . . becoming increasingly concerned over additional evidence [of] Nhu negotiating for settlement with North]. Theo Khiêm—người từng cứu giá chế độ trong cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960—Nhu tiết lộ với một số Tướng (như Big Minh, Lê Văn Nghiêm) về cuộc tiếp xúc với Maneli. Maneli đã mang tới đề nghị của Đồng về việc hiệp thương giữa Bắc và Nam; và Nhu đang nghiên cứu, sẽ cho các Tướng biết thêm những bước kế tiếp. Nhu tuyên bố Maneli đã hoàn toàn dưới sự sử dụng của Nhu và sẵn sàng bay ra Hà Nội bất cứ lúc nào được chỉ thị. Nhu còn thêm rằng Đại sứ Pháp Roger Lalouette từng đề nghị tương tự.(13)

 

2. Cán bộ “Việt Cộng”:

Nhu còn thú nhận đã bí mật tiếp xúc với một số cán bộ Việt Cộng (hiểu theo nghĩa Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam). Mùa Xuân 1963, nhân dịp phát động chiến dịch Chiêu Hồi (tháng 4/1963), Nhu nhiều lần khoe đón tiếp cán bộ Cộng Sản cao cấp ngay tại Dinh Gia Long. Có lần, Nhu chỉ vào chiếc ghế Đại sứ Frederick (Fritz) Nolting đang ngồi, nói một lãnh tụ Việt Cộng vừa mới rời chỗ đó. Rồi giải thích rằng đang gặp lãnh tụ Việt Cộng để thuyết phục họ mang quân về hàng. Nolting báo cáo chi tiết này về Oat-shinh-tân, và xin cho Nhu toàn quyền hành động hầu thành lập một chính phủ “mở rộng.” Nhưng các cố vấn của Kennedy không hài lòng–họ coi đó gần như một hành động bội phản.(14)

 

Chiều ngày 24/5, Nhu yêu cầu Tướng Paul Harkins (Tư lệnh M.A.C.-V., hậu thân cơ quan quân viện Mỹ, MAAG), Richard G. Weede, (Tham mưu trưởng M.A.C.-V.), John H. Richardson (CIA) và cố vấn chính trị William C. Trueheart vào Dinh Gia Long họp bàn về liên hệ với cán bộ CS. Nhu tiết lộ mới nhận được tin mật là CS vừa tổ chức một Hội nghị cán bộ chính trị và quân sự ngày 19/5/1963 tại đồn điền Memot trên đất Căm Bốt. Mật báo viên của Nhu tham gia hội nghị này. Kết quả, hội nghị trên quyết định rút sáu [6] tiểu đoàn đặc công từ Việt Nam qua Lào làm nghĩa vụ Quốc tế từ ngày 20/5, vì Lào trở thành ưu tiên thứ nhất của Hà Nội và Nam Việt Nam bị đặt xuống hàng thứ hai. Các đơn vị chính qui sẽ rút về mật khu Cambodia, hay ngừng tham chiến, giao trách nhiệm chiến đấu cho các đơn vị địa phương và tự vệ. Nhu tuyên bố nếu báo cáo trên chính xác, VNCH sẽ tổng tấn công, đánh tan các lực lượng địa phương, và ngăn chặn đặc công từ Lào đột nhập Nam Việt Nam. Cầm đầu lực luợng đặc biệt này là Nghệ (?). Tới Lào, Nghệ sẽ là cố vấn của Tướng Trần Sơn [Trần Văn Trà, hay Chu Huy Mân?], Tư lệnh Lực lượng ngoại quốc tại Lào.(15)


Chiều 2/9, Nhu cũng thú nhận với Lodge rằng mình tiếp xúc với Việt Cọng. Những cán bộ VC này đã rất chán nản, muốn ngừng hoạt động. Sáu tháng trước, một Đại tá VC muốn đào ngũ với ba [3] tiểu đoàn, nhưng Nhu khuyên ông ta ở lại biên giới Lào chờ cơ hội thuận tiện. Một Tướng VC ở Cambodia cũng muốn gặp Nhu. Không những VC đang thất vọng mà còn cảm thấy bị Bắc Việt lợi dụng.( 16)

Có người cho rằng đây là lời bịa đặt của Nhu. Nhận định này quá vội vã. Trong hậu trường chính trị Sài Gòn, luôn luôn có những màn đi đêm lạ lùng. Không thiếu người nỗ lực “lôi kéo những phần tử Quốc Gia” trong MTDT/GPMN ra khỏi sự kiềm tỏa của Cộng Sản. Trong số nhân vật được coi là “người quốc gia” có Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Từ năm 1948-1949, Y sĩ Lê Văn Hoạch, một cựu Thủ tướng Nam Kỳ Tự Trị (1946-1947), và Nguyễn Hòa Hiệp đã không ngừng tìm cách đưa phần tử quốc gia về thành. Mùa Thu 1964, Đại tướng Raymond Nguyễn Khánh—cũng qua Quốc Vụ Khanh Lê Văn Hoạch—trao đổi thư từ với Phát, Tổng thư ký MTDT/GPMN, nhưng cũng đồng thời cầm đầu guồng máy tình báo trí vận tại Sài Gòn-Gia Định. Món quà trao đổi là vợ con Phát lấỳ tù binh Mỹ. Hai năm sau, dù đang lưu vong ở Paris, Khánh còn mưu toan móc nối Nguyễn Hữu Thọ, đưa Chủ tịch MTDT/GPMN về hồi chính. Một trong những trung gian là Lê Văn Trường ở Paris, người tự nhận là “thượng cấp” của Thọ. Năm 1966, Lodge cũng lọt vào một màn ảo thuật âm mưu đưa Nguyễn Hữu Thọ bỏ mật khu.(17) Năm 1967, tình báo Mỹ còn mở đường giây liên lạc trực tiếp với MTDT/GPMN bằng cách phóng thích vợ Trần Bửu Kiếm, vợ Trần Bạch Đằng, cùng một cán bộ cao cấp [Trương Như Tảng] qua khuôn khổ trao trả tù binh. Trần Bạch Đằng còn nhận được một máy truyền tin để liên lạc trực tiếp với tình báo Mỹ. Các giới chức cao cấp của VNCH—từ Thiệu, Kỳ, tới Linh Quang Viên, Nguyễn Ngọc Loan—đều được thông báo về kế hoạch “BUTTERCUP” này và quay mặt làm ngơ. Dư luận bào chí Sài Gòn từng một thời loan tin VNCH đã bắt được một cán bộ giao liên của Việt Cộng khi vào Sài Gòn tiếp xúc Tòa Đại sứ Mỹ. Những người giàu tưởng tượng còn suy diễn rằng kế hoạch “BUTTERCUP” trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc Tổng Công Kích và Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968), nên trong những ngày đầu Xuân khói lửa, các đơn vị Mỹ và Đồng Minh đã án binh bất động.

Trong hai năm 1962-1963, chung quanh Nhu có khá nhiều cán bộ tình báo chiến lược CSBV. Phạm Ngọc Thảo, và Vũ Ngọc Nhạ chỉ là hai người được biết nhiều nhất. Lời thú nhận “móc nối Việt Cộng” của Nhu, bởi thế, cần được nghiên cứu kỹ càng hơn trước khi có một nhận định võ đoán [sweeping remark]. Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, chúng ta không thể không tin lời khai của chính Nhu. (Theo hình luật Mỹ, lời tự thú của nghi can là bằng chứng rất đáng tin cậy)

 

3. Phái viên khác của Hà Nội:

Theo một nguồn tin, Nhu còn mượn cớ đi săn, để bí mật gặp cán bộ CSBV.

 

a. Truờng hợp Phạm Hùng:

Cán bộ CS được William Colby nêu đích danh là Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam, Phó Thủ tướng, từng là Chủ Nhiệm Ủy Ban Thống Nhất. Theo Colby—trưởng lưới tình báo CIA tại Sài Gòn năm 1960-1962, Giám đốc Sở CIA Đông Nam Á, Phụ tá Giám đốc kế hoạch bình định nông thôn ở Việt Nam [CORDS], và rồi Tổng Giám đốc CIA—nhiều năm sau cái chết của anh em Diệm-Nhu, một Tướng cao cấp thuộc nhóm đảo chính 1963 [Trần Văn Đôn?] tuyên bố đã nghe tin Nhu gặp Phạm Hùng vào [tháng 2/1963]. Cuộc gặp mặt này xảy ra trong giai đoạn Diệm-Nhu có nhiều dị biệt lớn lao với Mỹ (hậu quả của bản báo cáo của Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield), và đang nỗ lực tìm cách thoát khỏi sự bế tắc giữa hai gọng kìm Mỹ và Cộng Sản.( 18)

Là người thân thiết với Nhu và chống việc thay Diệm, Colby không trích dẫn lời chứng của Tướng [Đôn?] một cách tắc trách. Muốn bác bỏ hay “chỉnh lý”, cần tìm ra tư liệu văn khố Bộ Chính Trị Đảng CSVN, Nga hay Trung Cộng chứng minh không có màn đi đêm, mà không thể chỉ dùng lối nhận định võ đoán là “tin đồn vô căn.” Về chi tiết Phạm Hùng là “người cầm đầu các nỗ lực của Cộng Sản tại miền Nam [the leader of the Communist effort in the South] mà Colby đề cập cũng không nhất thiết phải hiểu thu hẹp như Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam thời gian này [1963]. Năm 1963, Phạm Hùng, với cương vị Phó Thủ tướng, Ủy viên Bộ Chính Trị, có thể được kể như người cầm đầu nỗ lực của CS tại miền Nam. Những Nguyễn Văn Linh, Võ Toàn (Võ Chí Công), Trần Văn Trà, Trần Nam Trung (Trần Lương), Trần Văn Tấn (Lê hay Trịnh Trọng Tấn) chỉ là nhóm 10 cán bộ trung cấp (Ủy viên trung ương Đảng) tại “B”. Câu văn của Colby có thể cũng chỉ nhằm ghi nhận rằng Phạm Hùng là người cầm đầu CS miền Nam khi Colby được mật báo về chuyện gặp gỡ bí mật Nhu-Hùng bốn năm năm trước.(19) Trần Bạch Đằng, một cán bộ CS cao cấp, phụ trách tuyên giáo của Trung Ương Cục Miền Nam–nhân vật chủ chốt trong kế hoạch BUTTERCUP—nói với tác giả năm 2004-2005 là không hề tiếp xúc với họ Ngô. (19b) Nhưng có thể Trần Bạch Đằng hay Thiếu tướng Trần Độ không được thông báo về các gián điệp chiến lược trực tiếp nhận lệnh của Lê Duẩn hay BCT.

Cuộc gặp mặt Hùng-Nhu này, tưởng nên ghi thêm, cũng được tình báo Pháp ghi nhận. Tin tình báo thì thường chỉ ghi “reliably informed.” Lời chứng của các Tướng Đôn, Khiêm, Minh hay Nghiêm có mức khả tín nào sẽ được tài liệu văn khố bạch hóa trong tương lai.

.

b. Những đầu mối khác:

Vài tác giả còn ghi nhận đại diện CSBV vào gặp Nhu ngay tại Sài Gòn, qua trung gian Đại sứ India trong UBQT/KSĐC “nhiều lần.”(20) Trần Văn Dĩnh tiết lộ ngày 29/10 đích thân Diệm chỉ thị cho Dĩnh chuẩn bị gặp một đại diện Hà Nội (Lê Đức Thọ?) để dò ý. Theo dự trù, Dĩnh sẽ gặp phái viên Hà Nội ngày 15/11/1963 tại New Dehli, nơi Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) giữ chức Tổng Lãnh sự từ ngày 26/7/1956. Nhưng cuộc đảo chính 1/11/1963 khiến âm mưu này phải bỏ dở. Theo Dĩnh, Diệm còn dặn dò phải dấu kín Nhu.(21)

Những âm mưu đi đêm giữa Nhu với Hà Nội, dĩ nhiên, phải nhiều thời gian nữa mới có thể rõ chi tiết, khi tài liệu văn khố Bộ Chính Trị Đảng CSVN, Trung Cộng, Liên Sô Nga hay Vatican mở ra cho các nhà nghiên cứu. Một số tư liệu Pháp và Mỹ hiện cũng chưa giải mật. Người học sử nghiêm túc không thể không thận trọng về mặt trận tình báo dầy phủ sương mờ nghi hoặc này, chẳng nên áp dụng cứng ngắc thứ luật “bằng chứng” [evidence] của luật pháp Mỹ gọi là “hearsay” [nghe lại lời kể của một người khác]. Hơn nữa, có những bằng chứng không thể bài bác, sau khi phối kiểm lại, cho thấy Diệm-Nhu quả thực đã ve vãn Hà Nội, tìm cách gặp đại biểu Hà Nội, khiến Mỹ lo ngại rằng một sự thỏa thuận Bắc-Nam có thể trở thành sự thực vào khoảng cuối năm 1963.

 

B. NHỮNG BIỂU HIỆU:

Việc ve vãn Cộng Sản Hà Nội còn có thể tăng bổ [corroborate] bằng những lời tuyên bố và việc làm của họ Ngô trong ba năm 1961-1963 liên quan đến các vấn đề “thống nhất và trung lập,” yêu cầu cắt giảm lính Mỹ và tuyên truyền chống Mỹ.

 

1. Thống nhất và trung lập:

Những tài liệu văn khố hiện đã mở ra cho người nghiên cứu chưa tiết lộ rõ ràng chi tiết về phản ứng của họ Ngô với điều kiện “thống nhất và trung lập” mà Hà Nội cũng như MTDT/GPMN tung ra từ năm 1962.

Ngô Đình Diệm, vào tháng 5/1963, tâm sự với Đại sứ Lalouette rằng chiến trận sẽ tự động tàn lụn đi, không cần phải có thương thuyết, vì các lãnh đạo miền Bắc cảm thấy được sự vô ích trong âm mưu đánh chiếm miền Nam.(22) Chỉ từ tháng 8/1963, Diệm mới có vẻ tách khỏi lập trường chống Cộng, nghiêng về “trung lập.” Ngày 30/8, Diệm triệu tập Hội đồng chính phủ để nghiên cứu tuyên ngôn ngày 29/8/1963 của Tổng thống de Gaulle, về giải pháp trung lập, thống nhất, độc lập với mọi ảnh hưởng ngoại bang. Rồi cho lệnh Việt Tấn Xã dịch tuyên ngôn trên, in trên trang nhất bản tin Việt Tấn Xã. Chính phủ Diệm cũng cho lệnh Đại sứ Phạm Khắc Hy ở Paris xin gặp Ngoại trưởng Maurice Couve de Murville, yêu cầu giải thích lập trường Pháp. Một số viên chức thân cận Nhu, như Quyền Ngoại trưởng Trương Công Cừu—được Lodge gọi là “tên xu nịnh không hề biết xấu hổ nhất mà tôi từng được biết”—nói với viên chức Pháp rằng người Việt đã hiểu được những gì de Gaulle muốn nói.(23)

Nhu là người duy nhất trực hoặc gián tiếp đề cập đến trung lập. Gần cuối tháng 8/1963, Trần Thiện Khiêm mật báo với Mỹ rằng Nhu từng tuyên bố với các Tướng (kể cả Dương Văn “Big” Minh, Lê Văn Nghiêm) là nếu Mỹ cắt viện trợ, Nhu có thể liên lạc với Hà Nội, yêu cầu giảm bớt cường độ chiến tranh, trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh viễn. (24) Nguồn tin tình báo Mỹ ngày 30/8/1963 khẳng quyết rằng ít tháng trước ngày Nhu tiếp Maneli tại Dinh Gia Long, Nhu đã chủ trương trung lập hóa và thống nhất Việt Nam. (25) Nhưng khi gặp Lodge chiều Thứ Hai 2/9/1963, và John H. Richardson (?) chiều Thứ Sáu, 6/9, Nhu minh xác rằng mình cực lực chống trung lập, vì trung lập hoàn toàn đi ngược với quan điểm và chính sách VNCH. (26)

 

2. Giảm quân số Mỹ:

Việc đòi hỏi giảm quân số Mỹ được Nhu đề cập từ đầu năm 1963.(27) Ngày Thứ Sáu, 12/4/1963, khi tiếp chuyện một viên chức CIA ở Sài Gòn Nhu tuyên bố cần giảm từ 500 tới 3,000 hay 4,000 lính Mỹ. Nhu nói khi người Mỹ mới tới, người Việt rất kính nể họ vì họ làm việc chăm chỉ, có kỷ luật và không gấu ó lẫn nhau hay với người khác. Tuy nhiên kỷ luật đã bị sa sút, theo thời gian và nhân số. Diệm đã nhận được quá nhiều lời than phiền. Tướng Tôn Thất Đính, chẳng hạn, than phiền rằng có quá nhiều người Mỹ.(28) Tại quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, trong mùa Hè 1963 được lưu truyền những việc làm “anh hùng” của một số sĩ quan Việt chống lại thái độ trịch thượng, thực dân của cố vấn Mỹ. Đại tá “Lam Sơn,” chẳng hạn, từng “gõ can [gậy chỉ huy] lên đầu một cố vấn Mỹ,” hay Tướng Đính “rút súng dọa bắn” một nhân viên CIA Mỹ.

27. Tính đến ngày 9/1/1962, quân Mỹ ở Nam Việt Nam tăng hơn 100%: Từ 948 người vào cuối tháng 11/1961 lên 2,646 người ngày 9/1/1962 và dự trù sẽ lên 5,576 vào cuối tháng 6/1962. Ngày 30/1/1963, Tướng Earle Wheeler báo cáo Mỹ đã có hơn 400 cố vấn cấp Tiểu đoàn và tương đương; trên 100 cố vấn tỉnh; 220 người trong ngành an ninh tại NVN. Gần 300 phi cơ đã hoạt động, gồm 148 trực thăng vận tải, 11 trực thăng võ trang, 81 vận tải có cánh, 13 khu trục (chiến đấu cơ), 9 oanh tạc cơ hạng nhẹ, 4 thám thính chiến đấu, 37 liên lạc. Về quân đội VNCH, có 196,357 Bộ binh, 6,595 Hải quân, 5,817 Không quân, 5,281 TQLC, 75,909 ĐPQ, 95,828 Dân vệ; FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 26.

 

Ngày 22/4/1963, cơ quan CIA tiên đoán chế độ Diệm sẽ yêu cầu Mỹ giảm quân số tại miền Nam. Diệm và Nhu đều quan tâm đến vấn đề nhân viên Mỹ “xen vào” (infringements) chủ quyền của VN, đặc biệt là cơ quan quân viện [MAAG] và các đơn vị Lực lượng đặc biệt [LLĐB] Mỹ. Phủ Tổng thống đang tra hỏi những viên chức phụ trách phối hợp với Mỹ về các hành vi của nhân sự Mỹ.(29)

Hơn một tháng sau, trong bài phỏng vấn Nhu trên báo Washington Post [Bưu điện Oat-shinh-tân] số ra ngày Chủ Nhật, 12/5/1963, Warren Unna thuật rằng Nhu muốn khoảng 12,000-13,000 quân Mỹ sẽ giảm xuống một nửa. Vì theo Nhu, đa số các cố vấn Mỹ tại địa phương chỉ thu thập tin tức tình báo, và sự hiện diện đông đảo của cố vấn Mỹ tạo cơ sở cho tuyên truyền của VC. Do áp lực của Mỹ, năm ngày sau, 17/5, Diệm mượn tuyên cáo chung [với Nolting] về vấn đề quĩ tài trợ chống nội loạn [CIP] để chính thức cải chính lời tuyên bố của Nhu: Số nhân viên Mỹ tại Nam Việt Nam sẽ tùy thuộc vào nhu cầu an ninh, kinh tế và xã hội. (30) Ngày Thứ Hai, 20/5, Nolting cũng báo cáo là Nhu cải chính rằng đã bị Unna trích dẫn sai lạc. (31) Ba ngày sau nữa, 23/5, Nhu chính thức cải chính rằng chỉ muốn phát động “một cuộc cách mạng thực sự, để tiến dần đến tự túc,” nhưng đã bị hiểu lầm quá nhiều như bài Mỹ hay bài ngoại. (32)

Hạ tuần tháng 5/1963, sau khi chào Diệm để về Pháp nghỉ, Lalouette cũng tiết lộ Diệm và Nhu đã yêu cầu giảm bớt số cố vấn Mỹ.(33)

Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, người được chính phủ Mỹ coi như nhân vật có thể kế vị Diệm trong trường hợp bất trắc, cũng xa gần không muốn Mỹ gửi cố vấn dân sự xuống các tỉnh.

Mạnh miệng nhất là Lệ Xuân. Trong thời gian đi “giải độc” ở châu Âu và Mỹ, “Rồng Cái” ví von quân nhân Mỹ tại Việt Nam như những tên lính đánh thuê nho nhỏ [little soldiers of fortune]. Vợ chồng Nhu còn chê bai cả binh chủng Lực lượng Đặc biệt do Kennedy lập nên; và, nói thẳng rằng quân đội Mỹ không thích hợp với chiến tranh du kích.

Trong bài phỏng vấn trên tờ Espresso của Italia, ra ngày 10/10, Nhu tuyên bố miền Nam có thể sống còn dù Mỹ yểm trợ hay không. Nhu chỉ cần các đơn vị trực thăng và tiền, không muốn lính Mỹ vì binh sĩ Mỹ không có khả năng đánh chiến tranh du kích. Ngay LLĐB do Kennedy thành lập cũng chẳng có giá trị gì. Diệm và Nhu chống lại việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam kể cả trong giai đoạn nghiêm trọng nhất trong mùa Đông 1961-1962 [sic]. Cuộc chiến không thể thắng được với người Mỹ, vì người Mỹ cản trở sự chuyển biến cách mạng của xã hội, một điều kiện tiên quyết của chiến thắng.(34) Ước muốn của Nhu là Mỹ chỉ cung cấp quân viện, phi cơ, súng đạn, thiết giáp, thiết vận xa, v.. v... và giao mọi việc khác cho họ Ngô.

 

3. Chống Mỹ:

Suốt từ đầu năm 1950, sau khi lội núi vượt sông đi bộ 17 ngày qua Bắc Kinh xin viện trợ, ngày 3/2/1950 Hồ Chí Minh—tức Linov Nguyễn Sinh Côn (1892-1969)—được Phó Chủ tịch Trung Cộng Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ] cho qua Mat-scơ-va gặp Josef Stalin, nối lại tinh thần “quốc tế vô sản.” Mặc dù chẳng trọng vọng gì Hồ, Stalin cho Hồ gặp mặt để giải thích lý do giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương ngày 11/11/1945, cùng liên hệ với tình báo Mỹ, Bri-tên, và Trung Hoa. Từ ngày này, Hồ ngả hẳn về khối Cộng Sản do Liên sô Nga cầm đầu. Ngoài những chiến dịch suy tôn Stalin, Mao Trạch Đông, tái lập Đảng Cộng Sản dưới bảng hiệu Đảng Lao Động Việt Nam [LĐVN] năm 1951, hay chỉnh phong, chỉnh cán, chỉnh quân, cải cách ruộng đất, áp dụng những “nghi lễ Mao-ít” trong đời sống thường nhật, Hồ chỉ thị cho thuộc hạ đẩy mạnh phong trào tố cáo “đế quốc Mỹ xâm lược.”(35) Sau năm 1954, cơ quan tuyên truyền Hà Nội cũng ngày đêm ra rả gọi sự trợ giúp của Mỹ cho chế độ chống Cộng ở miền Nam là “đế quốc” hay “tân thực dân”—dù trên thực chất cả hai phe đều là “anh hùng khất thực.”

Từ sau cuộc đảo chính của Nhảy Dù và TQLC ngày 11/11/1960, chế độ Diệm bắt đầu dùng thuật ngữ “thực dân Mỹ.” Ngày 17/11, Ủy Ban Nhân Dân Chống Phiến Cọng của Trương Công Cừu, Ngô Trọng Hiếu và Nguyễn Văn Châu sử dụng phương tiện của chính phủ và quân đội rải truyền đơn tố cáo “thực dân Mỹ, Anh, Pháp” dính líu vào cuộc đảo chính. Đích thân Diệm tố cáo với Tướng Lionel McGarr, Tư lệnh MAAG, rằng có những phần tử Mỹ nói xấu chế độ. Nhu thì đi thẳng vào vấn đề hơn. Trong cuộc thảo luận với Lalouette, Nhu nghi Mỹ nhúng tay vào cuộc đảo chính. Một trong những chứng cớ là Đại sứ Elbridge Durbrow chỉ đứng ra hòa giải, và còn cho Hoàng Cơ Thụy vào bao tải đựng văn kiện ngoại giao đưa trốn khỏi nước. Nhóm sĩ quan Nhảy Dù thì tuyên bố ở Phnom Penh là được Mỹ yểm trợ.(36)

Báo cáo ngày 18/12/1962 của TNS Mike Mansfield (1903-2001), Chủ tịch Khối đa số Thượng viện Mỹ—người đã nhiều lần cứu nguy chế độ Diệm—khiến vợ chồng Nhu lại xa gần đả kích “thực dân.”(37) Ngày 2/3/1963, Diệm cũng tuyên bố không cần học hỏi gì ở Oat-shinh-tân.(38)

Gần cuối tháng 3/1963, Nhu cho lệnh Tung và Đính mở chiến dịch tuyên truyền “chống Mỹ.“(39) Lệ Xuân mượn ngày Lễ Hai Bà Trưng 1963, và rồi tổ chức Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới [PTPNLĐ] để chỉ trích Mỹ can thiệp vào nội tình Việt Nam. Theo Lệ Xuân, đừng nên tỏ vẻ biết ơn viện trợ của ngoại quốc; vì nhiều kẻ viện trợ tưởng rằng chúng có quyền phá hủy phong tục, truyền thống và luật pháp lành mạnh của Việt Nam, biến Việt Nam thành bù nhìn, dụ dỗ đàn bà Việt Nam vào đường sa đọa. Vì thế, ngày 13/4/1963, Đại sứ Nolting đã từ chối lời mời lên Đà Lạt nghỉ của Lệ Xuân.(40) Khi được tin Henry Cabot Lodge sẽ thay Nolting ở Sài Gòn, Nhu gọi Lodge là “Toàn quyền,” tước vị của viên chức cầm đầu Đông Dương dưới thời “Bảo hộ” Pháp. [Năm 1961, Diệm cũng từng tuyên bố không muốn biến Việt Nam thành một xứ bị bảo hộ [protectorate].

Từ cuối tháng 8/1963, nữ phát ngôn viên bán chính thức của chế độ—tức Lệ Xuân—ngày càng bộc lộ bản chất và tư cách đích thực của một người ít học vấn, nhưng do “Thiên mệnh Mỹ” và viện trợ Mỹ bỗng dưng lọt vào trung tâm quyền lực của miền Nam. Tổng Giám mục Thục cũng hòa điệu vào vở bi hài kịch mà Cố vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ McGeorge Bundy phải chua chát gọi là “cơn điên cuồng tập thể của một gia đình cai trị chưa hề thấy từ sau [ngày sụp đổ của] Nga hoàng.”( 41)

Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có tài liệu về những đầu mối bản xứ giúp gia đình họ Ngô ve vãn Việt Cộng. Có người cho rằng Mã Tuyên, một lãnh tụ Hoa kiều ở Chợ Lớn, là đầu mối quan trọng. Lại có tin Albert Phạm Ngọc Thuần [sau đổi thành Phạm Ngọc Thảo], cựu Giám đốc Mật vụ của Ủy Ban Hành Chính Kháng chiến Nam Bộ (1947-1949), và lúc đó giữ chức Thanh tra Ấp Chiến lược, với cấp Trung tá, là đầu mối khác. Ngoài ra, phải kể Vũ Ngọc Nhạ của cụm tình báo chiến lược A-22, và các ổ trí vận ở Sài Gòn dưới quyền Trần Bạch Đằng, với những thành viên như em gái Bộ trưởng Trần Lê Quang, v.. v...

 

B. NGUYÊN DO:

Có nhiều yếu tố dẫn đến việc Diệm-Nhu tự biến mình thành “phiến Cộng.”

 

1. Giải tỏa áp lực Mỹ:

Mục tiêu tối hậu của người Mỹ là duy trì một miền Nam chống Cộng, để ngăn chặn (containment) sức bành trướng của Trung Cộng và Nga Sô xuống vùng Đông Nam Á (NSC 5405 (16/1/1954), 5429 /2, 5. Paragraph 10-a (22/12/1954, & 27/1/1955), NSAM 111, 22/11/1961). Trên căn bản, người Mỹ chỉ yểm trợ một miền Nam chống Cộng mà không phải cá nhân nào. Nhưng họ Ngô muốn đồng hóa miền Nam với gia đình mình. Kiểu “sau lưng Hiến Pháp còn có tôi.” Bởi thế, những lời cố vấn để cải thiện hành chính, kinh tế, chính trị và quân sự được diễn dịch thành “áp lực” miên viễn.

Trong khi đó, từ năm 1960, người Mỹ muốn “rút ngắn hơn giây cương” con ngựa kéo cỗ xe chống Cộng miền Nam. (NSC 5809 (2/4/1958), 6012 (21/7/1960). Ba vấn đề được nhấn mạnh là đảng Cần Lao, nhân sự, và mở rộng sinh hoạt chính trị. Người Mỹ từng nhiều lần yêu cầu Diệm giới hạn quyền lực của Đảng Cần Lao, cùng vợ chồng cố vấn Nhu, Cẩn và Thục, cũng như mở rộng chính quyền cho những chính khách chống Cộng. Anh em họ Ngô cương quyết không chịu nhượng bộ. Họ muốn độc quyền “thiên mệnh Mỹ” và “phép lạ Mỹ.”

Cuộc tranh đấu của Phật giáo từ ngày 7/5/1963 khiến áp lực Mỹ ngày một gia tăng. Chính phủ John F. Kennedy (1/1961-11/1963) công khai áp lực Diệm phải đáp ứng những nguyện vọng của Phật giáo, thành thực tôn trọng bản Tuyên cáo chung 16/6/1963, và từng đe dọa sẽ tách biệt khỏi chính sách Phật giáo của chế độ Diệm nếu có thêm một vụ tự thiêu. Diệm-Nhu quyết không nhân nhượng, tìm đủ cách phản ứng: Từ bịa đặt ra việc Cộng Sản ném lựu đạn (sau sửa sai thành hai trái mìn từ lực) trước Đài phát thanh Huế, đàn áp, bắt giữ người biểu tình, tới vu cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do Cộng Sản chi phối, nhằm lật đổ chính quyền. Cả Diệm lẫn Nhu đều lên án “đế quốc” [và Cộng Sản] nhúng tay vào cuộc tranh đấu của Phật Giáo.( 42)

 

2. Lo ngại bị Mỹ bỏ rơi:

Từ năm 1960, họ Ngô không còn được chính phủ Mỹ chiều chuộng như xưa. Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960, Diệm-Nhu bắt đầu nghi ngờ sự yểm trợ mà Bảo Đại từng cay đắng gọi là “mù lòa” của chính phủ Mỹ, và nhóm “Những người bạn Mỹ của Việt Nam” [American Friends of Vietnam] như cựu Tướng William Donovan, TNS Mike Mansfield, Hồng y Francis Spellman, v.. v... (43)

 

a. “Sự áp bức của báo chí Mỹ”:

Điều khiến họ Ngô cực kỳ bất mãn là báo chí Mỹ không ngừng đả kích chế độ Diệm. Từ đầu năm 1957, báo Foreign Affairs [Ngoại giao] đã cảnh giác dư luận Mỹ về tình trạng “cảnh sát trị ở miền Nam.” Nhiều người cho rằng Mỹ đang sa lầy, không thể chiến thắng với họ Ngô.

Vài học giả ít nhiều liên hệ với Đại học Công Lập Tiểu Bang Michigan [MSU], Đại học ký giao kèo cố vấn cho những kế hoạch hành chính và luật pháp với Sài Gòn, cũng công bố những nghiên cứu bất lợi cho chế độ như Milton C. Taylor trên tờ New Republic ngày 14/6/1961, và Frank C. Child trên cùng báo này ngày 4/12/1961. Dưới mắt Diệm, nhóm MSU chịu trách nhiệm về các chỉ trích “không đúng sự thực, không hợp lý, và phá hoại”. Diệm và Nhu cho rằng các giáo sư MSU đã lợi dụng cơ hội để nghiên cứu làm công tác gián điệp và tung tin bêu xấu chính phủ.( 44)

Trong khi đó một nhóm ký giả trẻ như Neil Sheehan, Malcom Browne, David Halberstam, v.. v... được Trung tá Paul Vann, cùng viên chức trong Dinh Gia Long (Trần Kim Tuyến, Nguyễn Đình Thuần), và cán bộ tình báo chiến lược Bắc Việt (như Vũ Ngọc Nhạ, Pham Xuân Ẩn) cung cấp tin tức mật—do những lý do và mục đích khác nhau—tìm cách trình bày chiến cuộc và gia đình họ Ngô dưới những góc cạnh bi quan nhất. Sợi giây xuyên suốt qua những bài tường thuật của họ là trận chiến đang thua và Mỹ không thể thắng trận với họ Ngô. Theo họ, Nam Việt Nam đang trở thành một thứ “bãi lầy” hay “cát lún,” nghĩa địa của uy tín và danh dự của siêu cường Mỹ. (“Chiến thắng” Ấp Bắc ở Mỹ Tho vào đầu năm 1963 chỉ là một thí dụ) Qua những cuộc phỏng vấn Nhu và nhất là Lệ Xuân, họ biến vợ chồng Nhu-Lệ Xuân thành một thứ quái vật đen của chế độ.

Trong một chuyến thăm Mỹ bí mật, ngày 7/9/1960 Lệ Xuân đã nhờ Tướng Edward Lansdale và CIA bí mật can thiệp, công khai thanh minh cho Lệ Xuân về những tin đồn vô căn. Tại sao cơ quan CIA không nói Lệ Xuân là người thứ tư trong danh sách cần tiêu diệt của Cộng Sản (sau Diệm, Nhu và Cẩn). Tại sao những người Mỹ không hành động như Tướng Samuel T. Williams, Tư lệnh MAAG, con người chỉ biết làm bổn phận của mình? Các nhân viên và sĩ quan Mỹ tại Sài Gòn không thân thiện với chính phủ VNCH. Khi VC gia tăng tấn công, Đại sứ Durbrow chẳng những không tích cực giúp đỡ mà chỉ lo can thiệp vào nội tình cai trị của Diệm. Thái độ của Mỹ về việc tranh chấp biên giới với Căm Bốt thật khó hiểu. VC đột nhập qua ngả biên giới trong khi Mỹ cố tình ve vãn Norodom Sihanouk, tảng lờ việc Sihanouk thân thiện với Trung Cộng. Nhưng Lansdale chẳng làm được gì giúp vợ chồng Nhu.(45)

Vì không thích bị chỉ trích, họ Ngô tìm đủ cách phản ứng. Từ áp lực Tòa Đại sứ Mỹ can thiệp, tới sử dụng tờ nhật báo Mỹ ngữ ở Sài Gòn, Times of Vietnam [Việt Nam Thời Báo], hay vài ký giả nổi danh như Margueritte Higgins, v.. v... để trả đũa. Rồi dần dần đến những biện pháp kiểm duyệt, trục xuất, và ngay cả bạo động—tức hành hung và đe dọa trục xuất hay giam giữ.(46)

Cuối năm 1961, sau khi Kennedy không đồng ý gửi quân chiến đấu vào Nam Việt Nam như Taylor đã hứa với Diệm, lại còn ép Diệm phải cải tổ chính phủ, họ Ngô mở chiến dịch chống Mỹ trên báo chí Việt Nam để cảnh giác Kennedy về thứ gọi là “tự do quá trớn” của báo chí Mỹ. Trong buổi nói chuyện với Robert J. Manning ngày 17/7/1963, Nhu nhận định rằng một số ký giả trẻ Mỹ có tham vọng lật đổ chính phủ hiện hữu để lập một chế độ mới, và “chính phủ Việt Nam bị báo chí Mỹ áp bức.” (47)

POSSIBLE ACTIONS BY GVN AS QUID PRO QUO FOR
ADDITIONAL U.S. SUPPORT

I. Organizational steps:

1. Retain Thuan in one of three jobs he now holds, but appoint capable officials to other two jobs in order permit all three of these key positions function adequately.

2. Delegate real coordinating authority to the three coordinating "super ministers".

3. Flesh out delegation of authority to Field Command for counterinsurgency operations so that authority will be commensurate with responsibility.

4. Set up functioning internal security councils at central, regional, provincial, and district levels along lines of models used in other countries which have conducted counterinsurgency campaigns.

5. Give Central Intelligence Organization substance, and not just shadow, of authority and control over all intelligence operations.

6. Free both Diem and Assistant Secretary of National Defense from operational functions to sufficient extent to permit them to visit scenes of ARVN victories or defeats immediately after action has occurred and to maintain more frequent informal contact with armed forces in other ways.

7. Higher and more regular pay to local officials.

II. Steps to rally mass support:

1. Increase Diem's personal contact with people through more informal trips to countryside, by making himself available at palace to ordinary people, either in groups or individually, by occasionally hearing mass in small church or visiting Buddhist Pagoda, et cetera.

2. Travel by Diem, wherever possible, by helicopter directly from palace in order reduce adverse reaction from closing off of streets, motorcades proceeding at high speed, behavior of security guards, et cetera.

3. Frequent, frank, and down-to-earth talks over radio (at least once a month) and on TV if system set up.

4. Use flood actions as opening gambit in campaign for less luxury in Governmenf in view general emergency in which country finds itself.

5. At same time stop emphasizing "sacrifice and discipline" theme in talking to the people and tell them what they are anxious to hear-that better times are coming and that soon they will not be afraid to sleep at night.

6. In Saigon and other cities institute, visit, and dramatize laborconsuming projects for unemployed who have increased considerably as result influx into cities because of insecure conditions in countryside.

7. Initiate and publicize economic and social programs aimed at improving conditions in every village.

8. Proceed set up provincial councils which Diem has already promised publicly.

III. Steps to rally support of educated class:

1. Bring non-Communist political prisoners promptly to trial, including Dr. Dan and Pham Khac Suu.

2. Set up public tribune for free expression of ideas and criticisms as safety valve.

3. Establish political consultative council and consult this body sincerely and frequently. Council should include leading oppositionists since they are not in National Assembly.

4. Try to make it clear that National Assembly can vote freely on measures placed before it. Send back for thorough open debate measures recently adopted at Madame Nhu's instigation re taxi girls and establishment women's paramilitary force.

5. Permit opposition parties to operate and put up candidates for 1962 National Assembly elections.

6. In effort reduce criticism of family, place Nhu in ministry where he will have to accept responsibility.

IV. Armed forces:

1. Higher pay or increased family allowances to soldiers.
2. Better food.
3. Better system of promotion.

V. Social

1. Tax reform-higher rates and collections from well-to-do.

VI. Financial:

1. A realistic military rate of exchange.

173. Paper Prepared by the Taylor Mission/1/ Saigon, October 18, 1961. /1/Source: Kennedy Library, National Security Files, Vietnam Country Series Taylor Report (Rostow Working Copy). Top Secret.

 

There is no heading on the source text, but another copy bears the following handwritten notation on the cover sheet: "Questions Distributed by Taylor Mission for Answer by Task Force Saigon. October, 1961." (Washington National Records Center, RG 84, Saigon Embassy Files: FRC 68 A 5159, SGN (61) 19-GVN August through December) The questions were apparently given by the Taylor Mission to Embassy personnel at the briefing of the Taylor Mission by the Saigon Task Force on October 18.

Saigon, October 18, 1961.

I. Political-Social (Responsibility-Mr. Cottrell)

1. How stable is the Diem Government?

2. How can the political base for the counter-insurgency program be improved?

3. What would be the political effect of the following:

a. Introduction of SEATO and/or US forces?

b. A political settlement in Laos?

c. A major increase in US military and economic aid?

4. What are the pros and cons of a bilateral treaty?

5. What are the essential reforms to urge on Diem? What approaches to use?

II. Military (Responsibility-General Craig)

1. Operations and Training.

a. How is the ARVN presently disposed and how does it operate against the VC? Are present resources being used to best advantage?

b. How can the tactics and organization of ARVN be improved for combatting the VC?

c. How can the rate of increase of ARVN be accelerated? What should be the ultimate strength?

d. How can SVN forces take offensive action against the VM?

e. What can be done to combat more effectively the VC infiltration by land and sea?

f. What is the status of Special Force training? Is it adequate? Are the trained units properly used?

2. Logistics.

a. Are present logistical resources being used to best advantage?

b. What additional equipment is needed? Why? When? How much? Who operates?

c. What improvements are needed to facilities such as ports, airfields, roads and signal communications? Why? How much?

d. What can US logistical units, or US contractors do to help in logistics field? Engineers? Helicopters? CAT?

e. What prepositioning of military equipment and supplies is warranted now?

3. Intelligence.

a. What are the hard facts with regard to the VC insurgency? Tactics? Location? Routes of infiltration? Sources of supply?

b. How can the SVN intelligence system be improved? Photography?

c. What are the possibilities of organizing an effective village alarm system?

d. What are the reconnaissance capabilities? Ground? Sea? Air?

III. Political Warfare (Responsibility-Mr. Rostow)

1. What are the techniques of political warfare which can be brought to bear on the VC insurgency problem?

2. What importance is there to improving radio and TV facilities?

3. How is white and black propaganda organized? Is it effective?

4. What can be done to improve Diem's image before his own people and outside world?

IV. Unconventional Warfare (Responsibility-General Lansdale)

1. What unconventional warfare techniques should be considered in coping with VC insurgency?

2. How can we carry unconventional warfare to the enemy?

3. Are preparations adequate for waging unconventional warfare?

V. Covert Activities (Responsibility-Mr. Smith)

1. What are the covert and clandestine capabilities of SVN? Should they be increased?

2. What covert offensive actions should be considered?

3. What is being done to reduce or eliminate US participation in covert activities?

4. What are the possibilities of exploiting third country nationals in covert operations?

5. What is the extent of disaffection directed against the Diem Government?

6. What is the state of loyalty of the Armed Forces to Diem?

7. What is the true attitude of the SVN toward US?

VI. MAAG and Military Aid (Responsibility-Adm. Heinz)

1. How is the quality, size and organization of the MAAG?

2. Is the MAAG close to the RVNAF? How many are in the field? How are US advisors assigned to units?

3. Is there need for a program for further "encadrement"?

4. What is the status of organization and training of the Civil Guard and the local Security Forces?

5. How can the Secretary of Defense be kept better informed?

6. Is US military aid being used to the best advantage? Is it properly related to economic aid? Can the reaction time be reduced?

VII. Economic (Responsibility-Mr. Howe)

1. Is there need for a revision of the economic aid program to direct it more specifically to combatting VC insurgency?

2. Is economic aid properly related to military aid?

3. What are the short-term projects of greatest promise which should be pushed forward now?

4. What economic reforms which we are justified to urge on Diem? What approaches to use?

VIII. R&D (Responsibility-Dr. Rathjens-Mr. Godet)

1. What R&D items offer promise in the short term in combatting VC insurgency? What is needed to expedite them?

2. Can the R&D organization be improved?

Saigon, October 18, 1961, noon.

508. General Taylor, Rostow and Cottrell called on Diem together with local American officials for initial discussion October 18. Taylor opened by explaining reasons for his mission, its interest in all fields activity and its authority to make recommendations to President Kennedy, who will make decisions.

In response Taylor's request for description situation in Viet-Nam, Diem gave long historic account developments here. Main point which emerged concerned lack sufficient number of GVN troops. In addition insufficient armed forces he stressed need for large number well equipped and trained Civil Guard and self defense corps for protection of hamlets to prevent Viet Cong from feeding on countryside. Taylor asked whether increase armed forces could not be stepped up. Diem and Thuan replied that shortage of cadres is main bottleneck since additional officers and NCOs needed for all branches of security forces. Pointed to recent action doubling officer trainee class at Thu Duc school.

Since Diem's description underlined need for large security forces for various defensive purposes, Taylor noted that offensive warfare against guerrillas is less costly than defensive, and asked whether greater offensive action, striking at Viet Cong bases and ambushing them on infiltration trails could not be undertaken. Diem replied this being done in part but many trails not known and Viet Cong find it easy to deviate past GVN units on known trails.

Taylor asked for Diem's view on recent step-up in Viet Cong campaign. Diem said that Viet Cong aim is to induce GVN to withdraw troops from southern area (where they have been more successful in recent months) to meet greater activity in central Viet-Nam, thus again giving Viet Cong opportunity for greater initiative in southern area. Diem noted Viet Cong now often regroup into bigger units to attack more important targets but added that Viet Cong are not yet trying to engage in conventional warfare by holding on to places taken.

Taylor said he understood there had been recent discussions of introduction of American or SEATO forces into Viet-Nam and asked why change had occurred in earlier GVN attitude. Diem succinctly replied because of Laos situation. Noting it will take time to build up GVN forces he pointed to enemy's reinforcements through infiltration and increased activities in central Viet-Nam and expressed belief that enemy is trying to escalate proportionately to increase in GVN forces so that CVN will not gain advantage. He asked specifically for tactical aviation, helicopter companies, coastal patrol forces and logistic support (ground transport).

Diem indicated he thought there would be no particular adverse psychological effect internally from introducing American forces since in his view Vietnamese people regard Communist attack on Viet-Nam as international problem. Rostow inquired whether internal and external political aspects such move could be helped if it were shown clearly to world that this is international problem. Diem gave no direct comment on this suggestion. He indicated two main aspects of this problem: (1) Vietnamese people are worried about absence formal commitment by US to Viet-Nam. They fear that if situation deteriorates Viet-Nam might be abandoned by US. If troops are introduced without a formal commitment they can be withdrawn at any time and thus formal commitment is even more important in psychological sense. (2) Contingency plan should be prepared re use American forces in Viet-Nam at any time this may become necessary. In this connection Diem seemed to be talking about combat forces. While it was not completely clear what Diem has in mind at present time he seemed to be saying that he wants bilateral defense treaty and preparation of plans for use American forces (whatever is appropriate) but under questioning he did not repeat his earlier idea relayed to me by Thuan that he wanted combat forces.

Taylor several times stressed importance of overall plan-military, political, economic, psychological, etc.-for dealing with guerrillas. Diem tended avoid clear response this suggestion but finally indicated that he has new strategic plan of his own. Since it was not very clear in spite efforts to draw him out what this plan is, Taylor asked him to let us have a copy in writing.

I asked Diem about significance state of emergency decree just issued (our 504/2/). He said he took this action under conditions of Constitution and has sent it to National Assembly for approval in 30 days as required by Constitution. If Assembly approves establishment of state of emergency he said that executive decrees could then be issued. I asked whether this measure was taken because of security or flood conditions. He said both but it was evident that security considerations were uppermost since he referred to his mention of this proposed action in his October 2 National Assembly speech.

/2/Not printed. (Ibid., 751K.00/10-1861)

Nolting

174. Telegram 508From the Embassy in Vietnam to the Department of State/1/ /1/Source: Department of State, Central Files, 120.1551K/10-1861. Secret; Priority. ReDeated to CINCPAC for PolAd, Bangkok. Vientiane. and Phnom Penh.

 

Saigon, October 18, 1961, midnight.

507. Task Force VN.

Body of Col. Hoang Thuy Nam, Chief GVN Liaison Mission to ICC who kidnapped by VC Oct 1, recovered from Saigon River Oct 17 near bridge on northern outskirts of Saigon. Body to lie in state at GVN Liaison Mission headquarters in ICC compound beginning 1530 Oct 18. Funeral be held Oct 20. Suggest Department bring this development to attention of press. USIS sending to IPS GVN press release/2//2/Not found. on this subject.

 

. . . Oct 18 informed EmbOff as follows. GVN evening Oct 17 sent urgent letter to ICC,/3/3/Not further identified. / copies of which delivered to ICC commissioners at their homes, concerning Nam case. Letter stated impossible doubt that Hanoi authorities responsible for death of Col. Nam and earnestly requested ICC within one week inform GVN of measures ICC intended take against Hanoi authorities as result this incident. Letter added GVN and Vietnamese people awaiting with greatest attention word of action to be taken.

 

ICC met morning Oct 18 and unanimously agreed send letter GVN expressing "deep sorrow" over death of Col. Nam and asking ICC condolences be transmitted to family. Canadians and Indians also proposed ICC send additional letter asking GVN submit further proof that DRV implicated in Viet Cong activities such as kidnapping of Col. Nam, in order permit ICC consideration of possible investigation. During discussion this proposal Indian chairman warned Poles ICC might be in for serious trouble if no action taken on Nam case. Poles requested delay in order seek instructions from Warsaw but subsequently agreed to send letter proposed by Indians and Canadians. This done afternoon Oct 18.

Comment: ICC letter, which so worded as to invite evidence of DRV connection with Viet Cong in relation allegation latter's responsibility for Nam kidnapping, represents real "breakthrough" in subversion issue. ICC bound consider information submitted in response its own request and GVN, as result earlier Jorden visit, /4/ has developed useable and effective evidence which can now be exploited to fullest. . . .

/4/See Document 139.

"Time limit" for ICC action contained GVN letter unprecedented GVN tactic. GVN may have in mind using Nam case as justification for anti-insurgency actions in direct conflict with Geneva Accord.

We shall endeavor impress on GVN unprecedented opportunity presented by ICC letter and necessity exploit it.

Nolting

175. Telegram 507. From the Embassy in Vietnam to the Department of State/1/ Saigon, October 18, 1961, midnight. /1/Source: Department of State, Central Files, 751K.00/10-1861. Confidential; Priority. Repeated to New Delhi, Ottawa, London, CINCPAC for PolAd, Geneva for FECON, Paris, Phnom Penh, Bangkok, and Vientiane.



Washington, October 18, 1961, 9:27 p.m.

451. Ref: Deptel 192./2/ Joint State-Defense message.

/2/Telegram 192, August 15, notified the Embassy in Saigon that the question of the introduction of jets into Vietnam was still under study in Washington and that the Embassy would be informed when a decision was made. (Ibid., 751K.5-MSP/ 8-861)

1. In view factors involved in obvious breach of Geneva Accords, no firm date on introduction jets into Viet-Nam has yet been set. Any decision not to conform Accords as they pertain to jet aircraft will be made as political situation dictates at such time and to such degree as will best advance US interests. Nevertheless concur training should start now thereby enabling GVN accept jets when and if actual delivery is approved.

2. You are therefore authorized inform GVN of US offer to provide training in US to begin FY 62 for jet pilots and technicians in numbers required to operate six T-33's.

3. In discussions required for this purpose with GVN officials it should be made clear that:

(1) No public announcement be made of possible future delivery of jet aircraft pending final resolution US-GVN position on continued observance of Articles 16 and 17 Geneva Accords.

(2) That any decision to provide jets or other weapons must be made in light GVN need and ability to use them at the time. Item of most importance at present is adequate capacity of GVN to prosecute the counter-insurgency plan and to handle the immediate problem of Communist advances. Timing of jet delivery will be made in context of this capacity and eventual decision regarding Geneva Accords.

Rusk

176. Telegram 451.From the Department of State to the Embassy in Vietnam/1/ Washington, October 18, 1961, 9:27 p.m. /1/Source: Department of State, Central Files, 751K.5-MSP/10-1861. Secret; Priority. Drafted by Wood, cleared with Anderson (SEA) and Defense, initialed by Wood for the Secretary, and repeated to CINCPAC for PolAd.

 

Saigon, October 19, 1961.

SUBJECT Meeting held at Field Command Headquarters, ARVN, on Thursday, 19 October 1961 on the Occasion of the Visit of General Maxwell D. Taylor to Vietnam (the meeting was conducted in French)
ATTENDANCE General Maxwell D. Taylor, Special Military Advisor to the President of the United States
Lieutenant General Lionel C. McGarr, Chief, MAAG, Vietnam
Major General Duong Van Minh, Commanding General, ARVN Field Command
Brigadier General Le Van Kim, Deputy Commanding General, ARVN Field Command
Colonel Thomas A. McCrary, U.S. MAAG Senior Advisor to ARVN Field Command

A note on the source text reads: "This memorandum is based on interpreter's translated, fragmentary notes, expanded from memory. It is in no sense a stenographic record of the meeting and is neither official or approved." A memorandum of a conversation on the same day between Taylor and Lieutenant General Le Van Ty, Chief of the Joint General Staff, RVNAF, is ibid.

After an exchange of amenities, General Taylor told General Minh that his visit to ARVN Field Command was in the nature of a courtesy call and that he hoped to speak with General Minh a number of times before his departure./2/ He was sure that General Minh was aware of the reason for his trip to Vietnam-of his ambition to study the problems of the country and to help find a solution to them. Speaking as one soldier to another, he asked General Minh for his views on the guerrilla situation, how he could help to solve the problem and what General Minh's estimate of the present situation was as compared with conditions which existed two years ago. He told General Minh that he found it hard to judge and asked if, in the opinion of General Minh, the progress made by the communists was at a normal rate or if he felt that the tempo had increased sharply.

/2/No record was found of any subsequent Taylor-Minh conversations during the visit.

General Minh replied that, first of all, he considered the visit of General Taylor to be a great honor. He knew that General Taylor had spoken with all of his higher authorities and already knew much of what was happening. Speaking as a soldier, he wanted General Taylor to know that he considered the situation to be extremely grave. Not only had the Viet Cong grown alarmingly, but, worse, more and more, the Vietnamese Armed Forces were losing the support of the population. In reply to General Taylor's question as to why he felt this, General Minh said that he had known Vietnam under President Diem since 1954. The intelligence provided by the population was a guide to their attitude. In 1955 and 1956, they were full of enthusiasm and the spirit of cooperation. Now the population was giving trouble. When General Taylor asked if this was because of a loss of confidence and whether it was restricted to threatened areas, General Minh replied that the attitude prevailed in all areas-Saigon, for instance, could certainly not be considered to be a menaced area.

General Taylor then told General Minh that what he was saying was important and asked him if he had any ideas as to how confidence could be restored. Would success in war do it? General Minh replied that the government had to strive to be better understood-there should be no favorite groups or classes (he invited General Taylor to send out special teams to check). There should be no distinctions of people either because of race or religion. Under present conditions certain religions felt that they were less favored. General Taylor asked if there was a clear division along religious lines. General Minh replied that, although he, himself, was in favor of all religions, the government conferred too many favors on one and gave nothing to others.

Another situation which General Minh thought needed correction was the system of selecting Province Chiefs. He cited his own province as an example. One Chief appointed to the province was a contractor from Hue with no administrative experience. In addition, he spoke to the people in the language of Hue and this antagonized them. After two years of no success, another young man, from the South, was selected-a young Captain, made Major for the job--whom General Minh had known earlier. In the General's opinion, it had been necessary to stretch a point to make him a Corporal. In answer to General Taylor's questions, General Minh explained that nearly all Province Chiefs were military. Most were Captains--promoted to Major for the job and promoted again to Lieutenant Colonel within two years. Their authority stemmed directly from the President and they commanded all troops in the province except those on major operations. There were, in effect, two chains of command. General McGarr had fought hard for a single chain of command which had been agreed and which had worked-but only for several months. Now, old habits had returned. The Province Chief was always in command of the Civil Guard and of the local Self Defense Corps forces. Though the Civil Guard had been officially placed under the Ministry of Defense, they could not be touched by the military. When, acting on the guidance of General McGarr, an attempt was made to go on the offensive, it was found to be impossible to obtain the cooperation required for the establishment of security measures in areas which had been swept. There was no help from the Civil Guard. General Minh invited General Taylor to talk to General Don, Commanding General of I Corps, where the Civil Guard was organized and employed in a special way. General Minh went on to say that many things needed to be changed within the Army as well as out-morale had to be raised.

In reply to General Taylor's question as to whether the Presidential declaration of a State of National Emergency meant that all resources of the Nation would be united in the struggle against communism, General Minh shrugged, agreeing that such a united effort was necessary-that complete coordination of all elements of the government was a must-but many changes would be needed to make this a reality.

As long ago as last February, General McGarr had insisted that a National Plan to combat the insurgency was required. General McGarr added that he had been pushing for this ever since. General Minh, with the help of General Kim, had been working on a military plan which was just about completed. Only last week, according to General Kim, General Minh had requested that plans of other agencies be made available to him for comparison and coordination-he had not yet received any cooperation-and was not too confident of ever getting any.

In reply to General Taylor's question as to who in the government other than the President, was responsible for a united plan, General Minh said that he thought that the Secretary at the Presidency, Mr. Thuan, should be-but that he was faced with the same difficulties as others were.

When General Taylor told General Minh that he should not be discouraged, General Minh reminded him that he (General Taylor) had not been faced with a war problem like that in Vietnam and had been able to retire when he chose to do so. He was not completely discouraged but he was happy to have General Kim with him-they sustained each other.

In answer to General Taylor's question, he said that if he had the authority to do what he wanted to do, he would simply try to be impartial. To which, General Taylor commented that one was never intentionally unjust. General Minh smiled and said that he understood.

General Minh went on to say that, in general, the Vietnamese do not like the Communists, but some are allowed to fight them and others are not. He had fought against the Hoa Hao and the Cao Dai, now these people were ready to die in the struggle against the Communists. The sects no longer existed as they were before, but it was hard to exterminate "what is in the head"-they persisted as religions. The earlier struggle against them was really a fight to exterminate a group of bandits masquerading under the name of the Hoa Hao. General Taylor suggested that the same tactics should be used against the Viet Cong.

(At this point, General Kim motioned that no further notes should be taken.)

General Minh then said that he considered himself to be a young military officer in a young army. He felt that the military needed prestige and leadership, and the assistance of superior authorities to obtain what they needed. He felt that not only was this not true-there seemed to be a desire to downgrade the military.

General Minh told General Taylor that he was happy to be able to speak to him frankly. Others would also, but only if it could be tete-a-tete or in a very small group. There was a feeling that they were on a plane in a dive, and that they would soon reach a point where it would have to be levelled off or it would be too late.

The meeting ended with General Taylor's expression of his hope to see General Minh again before his departure.

177. Memorandum for the Record/1/ Saigon, October 19, 1961. /1/Source: National Defense University, Taylor Papers, T-637-71. Secret.

 

Saigon, October 20, 1961.

516. Gen. Taylor and Cottrell called on Vice President Tho October 19 accompanied by Mendenhall and me. Main points made by Vice President as follows:

1. Intelligence services function poorly because qualified personnel, equipment, and available funds spread too thinly among too many competing services. Central Intelligence Organization, which was formed at US request, not really functioning. Agreed with Taylor that adequate intelligence is of first importance in fighting guerrilla war.

2. Peasants do not support Communists politically but are forced help them because of pressure. Necessary to furnish proper protection to peasants including development protective measures at hamlet level. Stressed need for Civil Guard and Self Defense Corps, particularly latter, in sufficient number, better paid, better trained and better armed. Said that center is behind south in developing proper protective measures at village level.

Under questioning, expressed personal view that CG and SDC should have been increased rather than Armed Forces. Added current situation in central Viet-Nam requires some modification of that view but it is still valid for southern Viet-Nam. based this on fact that guerrilla war is fought at village level thus requiring local forces who know terrain and people. Also criticized Armed Forces for being overly-developed for modern warfare rather than being able to fight in mud and water, and said greater stress should be placed on Ranger forces.

3. When questioned on Montagnard problem, said this is most difficult problem facing Viet-Nam. He said that Montagnards are excellent as intelligence agents but not good in combat.

4. Stated that in general economy has not gone too badly despite insecurity. Asserted, however, that if Commies continue advance in countryside, cities will be gradually asphyxiated through loss of peasant purchasing power and growing unemployment resulting from influx people into cities. Thus absolutely necessary to hold countryside. Added that Communists have plan to try to seize upcoming rice harvest and province chiefs have been asked for ideas as to how to beat Communists to punch over this crop.

5. After brief account by Vice President of tactics and techniques followed by Communists in reaching present stage of guerrilla development, Taylor asked what should be done. Vice Pres in carefully phrased reply stated that US should "intervene" quickly and intelligently. He eluded questions directed at producing specific recommendations, but did state that US has already given lots of arms and other aid and more will be coming, and what we must insist upon is that this aid be used efficiently. Pointing to Taylor's initial questions about intelligence organizations, he asserted with smile that Taylor already knew what was wrong in Viet-Nam.

Vice President added that morale of population is not bad and could easily be revived if government worked properly. People are anti-Communist and will fight but they must be convinced that what is being done is intelligently planned and executed.

6. In conclusion I raised flood conditions and Vice President said that urgent assistance already requested by GVN should arrive during first two weeks in November to produce proper impact.

Comment: It was clear that Vice Pres, when pressed for his views, was pointing his finger at Diem's methods of government and administration. He said he was not anti-Diem and expressed his support of President. But this was a plea for US to adopt a firm approach in order to make Diem and his government effective. Though lacking specifics, Vice President's appeal was both moving and disturbing in its stress on importance of time. He said six months from now would be too late.

Vice President made very good impression during talk. He showed detailed knowledge of what is going on in countryside, and had lucid ideas as to how to deal with it. He is close to people and experienced in dealing with them. Obvious, however, that he will not himself stand up to Diem and doubtful that he any longer even tries to make his voice heard by Diem.

Nolting

178. Telegram 516 From the Embassy in Vietnam to the Department of State/1/ Saigon, October 20, 1961. /1/Source: Department of State, Central Files, 120.1551K/10-2061. Secret; Priority. Repeated to CINCPAC for PolAd, Phnom Penh, Bangkok, and Vientiane. No time of transmission is given on the source text; the telegram was received in the Department of State at 2:12 p.m.

 

Saigon, October 20, 1961.

 

SUBJECT Minutes of Intelligence Discussion, 20 October 1961
No drafting information is given on the source text, which is attached to a covering memorandum of October 27 from McGarr to Taylor in which McGarr wrote that it was MAAG's memorandum for the record and was "a summarization of the items covered during the discussion." not a verbatim account.

1. General Taylor conducted a conference of intelligence matters concerning South Vietnam in Chief MAAG's office on 20 October, with following persons in attendance.

General Taylor

Mr. Colby

General McGarr

Colonel Bryant

General Timmes

Major Hyler

Dr. Rostow

Major Freestone

Mr. Cottrell

2. Following is summary of discussion during the approximately two hour conference.

General Taylor asked for explanation of intelligence sources. Col. Bryant described how MAAG field advisors receive, translate and forward all ARVN generated intelligence reports from divisions, corps and Field Command to J2 MAAG; J2 MAAG also receives J2 RVNAF intelligence reports, estimates, studies, etc. Copies of all such reports are in turn transmitted to Army Attache and Evaluation Center-Attache consolidates, comments and forwards to USARPAC, PACOM and ACSI; Evaluation Center processes and produces collateral order of battle . . . . Within limited capability MAAG J2 utilizes all information received to produce current staff intelligence which is presented in form of weekly staff briefing of enemy situation and a monthly intelligence summary. General McGarr commented that MAAG not specifically charged with intelligence mission to collect information on ARVN and must be careful in this respect so as not to prejudice basic mission, however, do receive information on Viet Cong and North Vietnam from opposite numbers.

General Taylor inquired into ARVN intelligence system. Col. Bryant explained it is designed to operate same as US Army with flow from bottom to top. However, GVN also has civilian security/intelligence agencies, such as NPSS, SEPES, etc., which report information through the Province Chief and/or directly back to central headquarters in Saigon without in many cases passing the information to ARVN present in the area.

General Taylor inquired as to how the system should work to provide timely intelligence. It was explained that there should be free and continuous exchange of information at all levels between ARVN battalions/regiments in provinces and the provincial administration (which receives information from civil guard, SDC, police, own intelligence net, etc). However, this is not presently done in a considerable number of instances. Mr. Colby commented that province chief has civil guard, NPSS, own net, etc. reporting information to provincial headquarters and which province chief often uses solely in his own security operations, or reports to GVN in Saigon without disseminating to ARVN in the area. It was explained that intelligence for ARVN military operations comes from ARVN combat intelligence efforts plus that which may or may not be obtained from province administration sources.

Mr. Colby explained the seven intelligence agencies (in contrast to US five) and stated are numerous as President believes intelligence is "power" and through such organizations President is able to control, and by not centralizing them under a subordinate he avoids giving that power to someone who might use it against the President. Agencies are the ARVN intelligence, military security service (controlled by President and not ARVN), NPSS (National Police and Security Service), SEPES (Service for Social and Political Studies), Presidential Liaison Service (a private security service), and the recently organized Central Intelligence Organization which was organized at urging of US in order to pull all intelligence information together centrally, as is not now the case, where it can be collated, processed, and disseminated to users. CIO is having hard time in getting off the ground-lack of full Presidential support, and some other intelligence agencies. General McGarr stressed the great need for timely dissemination of all available intelligence to the military for effective conduct of operations.

Capability of MAAG advisors to collect and report enemy information and activity was discussed, and was explained that under present set up advisors are unable to do little other than collect enemy information from ARVN and forward up. This is because enemy activity is so numerous and widespread and advisors are seldom present on the actual scene of action.

General Taylor commented that reports received in Washington build up large red blots on the map which continue to accumulate as no subsequent information received to up-date situation allowing some units to be removed perhaps, and this possibly gives a misleading and scaring picture back in Washington. Mr. Colby commented that very possible the red blots do not build up as fast as the Viet Cong actually are building.

General Taylor, Mr. Colby, and Major Hyler discussed Viet Cong strengths compiled by Evaluation Center based on compilation of collateral order of battle and special intelligence information (information furnished General Taylor in separate report/2/ and not repeated here). General Taylor stated all reports going to Washington should report VC battalion strengths (or estimates), otherwise present false picture to those who think of battalions as 800-1000 man units. Growth of VC military was discussed and explained that available information indicates armed strength in Delta area has not increased greatly, however, a consolidation and regularizing of forces into regular battalions has taken place. The significant increase has been in the 1st and 2nd Corps areas and indications are this has been accomplished largely by infiltration.

/2/Apparently a reference to eight pages of outline notes, dated October 20, entitled "McGarr Briefing for Gen. Taylor." Among the subjects covered in the notes were the terrain and climate in Vietnam, Viet Cong strength, RVNAF casualties and strength, actions which improve the situation in Vietnam, and actions the United States might take. Under this last heading, McGarr said the United States might "employ US combat troops to fight Viet Cong," but they should not "come in at all unless in sufficient strength to tip the balance." The minimum force recommended by McGarr was two full divisions, "suitably reinforced and supported with helicopters, engineers, etc." (Ibid., T-637-71)

The figure of 200,000 Vietnamese being available to Viet Cong, as stated in GVN Aide-Memoire/3/ was discussed. It was explained this figure result of RVNAF J2 study based on information from the provinces as to number of villages controlled, or heavily infiltrated by VC (cy of J2 report/4/ available if desired).

/3/Not further identified.

/4/Not found.

Dr. Rostow queried as to order of battle picture at various echelons of ARVN and provincial administration levels. It was explained that province chief normally presents a neat picture of VC situation, but impossible for US personnel to evaluate accuracy. Also, in ARVN, the lower one goes in the units, the worse the situation becomes-in the past RVNAF J2 and Field Command G2 have been quite conservative from a quantity standpoint compared to subordinate divisions and slower in accepting new VC units and strengths. Dr. Rostow asked about interrogation of prisoners. Was explained that US does not participate in this activity, however, we supposedly receive results of interrogations if anything of value is revealed. Prisoners captured by ARVN are normally interrogated at division level then turned over to provincial authorities for trial, rehabilitation, etc. Mr. Colby commented on lack of cooperation in this and other intelligence matters from the NPSS due to antipathy towards Americans of NPSS Chief, Brig Gen La-presently OSA only receives, above board, a monthly roundup report from NPSS, . . . General McGarr briefly commented on how VC prisoners generally handled in attempt to rehabilitate them. General Taylor stated that POWs should be interrogated to provide evidence of link from NVN in order to make a case for the ICC. Mr. Colby commented that it can be proved that VC went North in 1954-55, trained there and resumed to the South.

General Taylor brought up fact of VC build up in SVN and apparent little increase in Delta area as opposed to Northern 1st and 2nd Corps area. Mr. Colby and others commented that appears Nambo (Delta area) concentrated on organizing a regular force structure from numerous platoon and skeleton-type units with little increase, relatively speaking, in overall military strengths, whereas, Northern area (1st and 2nd Corps) has seen a significant increase in military elements since Fall of 1960. Mr. Colby commented that it is apparent the VC opened up a second front of activity, so to speak, in the Northern Highland and Coastal areas due to considerable GVN success in suppressing activity in the South.

General Taylor brought up subject of casualties both sides. Col Bryant stated we have no confidence in reports received from ARVN on their own casualties, but there are indications that ARVN is becoming more reliable in reporting VC casualties, although still believed to be inflated considerably in specific instances. General Taylor wondered about the large VC casualty statistics commenting it might indicate low quality of recruits. Mr. Colby pointed out that casualties also include any innocent local people who may not have actually been connected with VC, or were at least passive concluding that a dead Vietnamese is always considered a VC by ARVN if killed in area of action. Dr. Rostow queried if study of casualties versus incident rate had been made-answer was no due to unreliability of statistics which would be used (MAAG judges that all statistics are only relative and do not show the complete picture. For example, a considerable amount of VC activity in areas heavily infiltrated or dominated by VC is never reported as there are no friendly sources to report.)

Types of VC (recruited in South, infiltrated, etc) discussed. General consensus that some 70 percent are recruited and trained in the South, approximately 25 percent are regrouped Southerners sent to North after war end (or later), trained, and infiltrated back to South, with some 5 percent probably originating from the North and sent here as political and military cadre.

General Taylor asked if US has capability to interrogate VC prisoners-answer was no due to language barrier, and must use Vietnamese Nationals. This is probably exploitable field as VC prisoners have not been systematically interrogated in past.

General Taylor asked for fundamental facts as to intelligence production by US in country, appears no one charged with nor staffed to do this, all agencies are collectors and reporters. Major Hyler described Evaluation Center operation and fact that MAAG, ARMA, OSA, etc, funnelled information into the Center. General Taylor asked for mission of EC and this furnished by Major Hyler, and which General Taylor read./5/ It was explained that General McGarr got the Center going to assist in supplying hard targets to ARVN based on special intelligence and concealed as to source of information by use of collateral. The Center reports through SSO to ACSI and Task Force. Product of Center collateral order of battle effort made available to in-country and all US agencies. General Taylor posed question as to what should be done to provide efficient in-country intelligence apparatus for collection, processing, and dissemination of accurate, timely intelligence. Giving MAAG intelligence production capability, bringing in a team from USARPAC, straightening out GVN intelligence processes, were discussed. Mr. Colby stated that OSA has started on GVN but President does not want his intelligence funnelled through one person or agency. MAAG has and is exerting similar efforts in the military field to get MSS (counterintel effort) under the army where it belongs, organize an FOI capability, and train intelligence specialists. General McGarr stated that if US units came in we would want to control intelligence or at least have a strong hand in the effort. General Taylor asked for best way to set up a US intelligence production effort or agency. Col. Bryant expressed belief that Evaluation Center should be expanded. Dr. Rostow commented that first we need personnel to work on the raw material, and that G2 or intelligence activities must work closely with G3 or combat operations. It was also generally agreed that US intelligence effort, however organized, should include an organization to work hand in glove with ARVN intelligence producers to assure the effort is properly conducted, we receive all available information, and to gain benefit of being able to exchange ideas and rapidly clear up questions of doubt concerning translations, etc.

/5/Not further identified.

The discussion turned to plans for sealing the border in which General McGarr explained current ARVN plans of consolidating numerous isolated small posts into several large defendable border bases from which ARVN would conduct interlocking patrols, etc. General McGarr mentioned present capability of VC to infiltrate at will through many border points where there are no friendly units. General Taylor asked if important VC groups had been discovered or ambushed coming in from Laos. Mr. Colby stated yes and described several instances, all of which are included in GVN Aide-Memoire with supporting documentary evidence. Dr. Rostow posed question that if US should consider bringing infiltration question up in UN where should UN observers be stationed to detect infiltration. General consensus was that border is like a sieve and a half-dozen or so locations could not effectively detect infiltration along the numerous jungle trails. General Taylor finished reading EC mission, and stated that the US wants to and must know how the war is going from all aspects, and that although EC mission is important, it does not go far enough.

The conference was concluded with General Taylor stating it had been most profitable. However, problem remains as how to institute effective intelligence system for both GVN in countering the VC threat and US in order to be knowledgeable on the overall situation-both GVN and Viet Cong.

179. Memorandum for the Record/1/ Saigon, October 20, 1961. /1/Source: National Defense University, Taylor Papers, T-015-69. Top Secret.

 

[Continue with the next documents]

Saigon, October 20, 1961, midnight.

520. We are struck by opportunity afforded by severe flood in Delta to undertake with GVN fast public demonstration of unity of purpose and action. We intend to conduct right away further survey of flooded regions related to following possibilities:

A. Restoration of four provinces to permanent GVN control, based on improved physical and social conditions and improved security arrangements.

B. Feasibility of using flood relief operation as means of introducing into SVN US military units for humanitarian purposes, which might be kept if necessary.

C. Demonstration of US concern and action on behalf of ally in non-military field by using military equipment and personnel (engineer battalions, boats, equipment, etc.) with important ICC and world opinion angle.

D. Publicity at time when much press attention focused this area.

E. Joint planning and operation with GVN which may point way to similar closer cooperation in other spheres.

Will submit further recommendations after survey. Purpose this message to give idea our preliminary thinking, in view shortness of time available for follow-through (approx two weeks) in event survey validates idea.

Nolting

180. Telegram 520 From the Embassy in Vietnam to the Department of State/1/ Saigon, October 20, 1961, midnight. /1/Source: Department of State, Central Files, 851K.49/10-2061. Secret. Also sent to CINCPAC for action and repeated to Phnom Penh.

 

Washington, October 20, 1961.

Dear Fritz: In view of the recent rumors about changes at the Palace . . . I thought it might be useful to bring up to date the memo entitled "Suggested Contingency Plan" which John Steeves sent to Durby under cover of his letter of April 13, 1961./2/

/2/Neither Steeves' letter nor the memorandum has been found.

The present memorandum is intended to replace the earlier one so that you will only have one file for easy (and possibly urgent) reference. Naturally the suggestions which follow are subject to your comment which we would very much value.

I would like to take this opportunity to tell you how pleased we are by the sensible, steady and conscientious embassy which you are carrying on in Saigon under the most difficult circumstances. I think the quality of steadiness is particularly important in our relations with the Vietnamese at this time.

Please convey my greetings to your staff and their families. I am very proud of them all. If there are any personal or professional problems on which we can be of assistance please be sure to let us know.

Very sincerely,

Walter

PS-Some of the statements in the enclosed memorandum will be obvious to you, but will provide clarification to high level persons in Washington who may wish to read it.

181. Letter From the Assistant Secretary of State for Far Eastern Affairs (McConaughy) to the Ambassador in Vietnam (Nolting)/1/ Washington, October 20, 1961. /1/Source: Washington National Records center, RG 84, Saigon Embassy Files ERC 68 A 5159, New Command Arrangements 1962. Top Secret; Official-Informal. A handwritten note in the top margin reads: "Rec'd 11/2/61."

 

[Enclosure]

Memorandum Prepared in the Department of State/3/

Washington, October 20, 1961.

/3/Top Secret; Limit Distribution. No drafting or clearance information is given on the source text.

SUGGESTED CONTINGENCY PLAN

The knowledge of the existence of this memorandum is to be restricted to the smallest possible number of persons. It is not an Instruction. It is designed for reference by the Chief of Mission, but is not binding on him.

It is suggested that it be kept available and that it be reviewed with the Department whenever considered necessary by the Chief of Mission either through official informal correspondence with the Assistant Secretary for Far Eastern Affairs or by telegram if necessary.

The United States continues to give President Diem full support by every appropriate means. For so long as Diem exercises effective control over the GVN, the US should take no action, overt or covert, which would give any encouragement to his opponents. During a possible coup the American Embassy should continue to support Diem fully until a decision is reached by the Chief of Mission that the time for change has arrived./4/

/4/Several marginal notes, apparently in Mendenhall's hand, are on the source text. Alongside this sentence is written a question mark.

If in the best. judgment of the Chief of Mission the situation arises where Diem has lost effective control, the United States should be prepared to quickly support the non-Communist person or group who then appears most capable of establishing effective control over the GVN. The nature of US support in such a situation should be strong enough to achieve rapid results but not so blatant as to make such a person or group appear as a US puppet. This will require the most careful handling.

While the final choice should not be frozen in advance, since it is impossible to foresee a situation which may arise, it is believed it would be wise if the Embassy prepared and kept current through regular consultation with the Department a list of persons and groups who might be acceptable. This might save priceless time in the event of a crisis and reduce the chances of mistakes or vacillation. Preliminary views follow:

1. The choice should be limited to persons in Viet-Nam on the grounds that they would be the only ones who would have any chance of rallying support in the face of the probability that the Communists would move fast./5/

/5/Alongside this sentence is written "Buu Hoi?"

2. The first priority should go to civilians within the Government with emphasis on US backing for a constitutional solution. Before abandoning Diem every effort should be made to consider how he might be reestablished even if he appeared temporarily to have lost control./6/

/6/Alongside this paragraph are written two question marks.

3. If the Chief of Mission should decide that Diem had lost control, the first decision would be whether to support Vice President Tho as the constitutional successor. A recent Embassy telegram (Embtel 516 dated October 20/7/) describes him as lucid, having detailed knowledge and as being close to the people. It would be necessary to persuade Tho and persuade the military to support him. This might be achieved through General Duong van Minh who is an old friend of Tho's (they were cellmates in a French jail about 1946) and who is well thought of in the army. It would be important to hold off the President's family. It might be well for Nhu to take a trip.

/7/Document 178.

4. Failing Tho, a second choice might be Nguyen dinh Thuan who is increasingly widely known as a result of the extensive representation which he does for Diem and who has preserved good relations with the Vietnamese military dating back to his days as a civilian official in the Vietnamese Department of Defense./8/ Both Thuan and Tho are capable men, experienced in the Vietnamese Government and friendly to Americans. Although Thuan is not in the constitutional line of succession, this would probably not be a major problem in the present crisis situation.

/8/Written in the margin next to this sentence are the following comments: "without political support & has made too many enemies."

5. Constitutionally, if Tho did not take office, President of the National Assembly Truong vinh Le would be next in line (Article 34) and would, according to the Constitution, preside for two months pending elections. He is dedicated, but has little public appeal and does not seem capable of firm imaginative leadership. At best he would be a temporary figurehead needing strong military support and a competent cabinet.

6. Other possible civilian candidates within the Government might be Bui van Long, Secretary of the Interior, Vo van Hai, the President's Chief of Cabinet or Tran van Dinh if he were in Viet Nam (he is now at the Vietnamese Embassy in Washington).

7. Another possibility which might be preferable paragraphs 5 and 6 would be a military caretaker government under General Duang van Minh./9/

/9/Written in the margin alongside this sentence are the following comments: "Or under Kim. Might also be preferable to any of foregoing choices."

8. The strength of the Communist challenge in Viet Nam would appear to rule out a Government of anti-Communist oppositionists. These men are disunited, inexperienced and do not have a wide following. It would seem almost impossible for them to organize an effective Government before the Communists took over.

Giving U.S. support to men now in the Vietnamese Government would reduce the risks of a dangerous interregnum and would probably be acceptable to most influential Vietnamese who do not appear to object so much to their present Government as to Diem's alleged inability to lead it effectively./10/

/10/Written in the margin alongside this sentence are the following comments: "Why not consider possibilities of Tran qui Buu, or Lt. Col. Thao, or perhaps even Maitre Dzu?"

9. It would also seem best to rule out any possibility of a Government under Diem's unpopular brothers, even if Luyen were front man. However, it might be wise to suggest that Brother Ngo dinh Can be left temporarily in control of his satrapy at Hue.

10. Meanwhile we face the very difficult problem of Diem's leadership. Most of those close to him do not now appear to think he is sufficiently effective. Diem seems unwilling to listen to advice on this subject. The U.S. is committed to support the Government of Viet-Nam of which Diem is President. It should be assumed that any U.S. initiative to remove Diem would become known and would be resisted ferociously by Diem and his family. But if it is clear that he can no longer obtain the effective collaboration of the members of his own government, we shall have to consider what we should and can do. We presume you will have discussed this with General Taylor and that he will have your views. We will discuss this with him when he returns. In the meanwhile, in view of the reported decrease in support which Diem seems to be receiving even from his closest advisers, we would appreciate your thoughts in this regard by cable.

The best U.S. approach would thus appear to be to support Diem so long as the Chief of Mission believes his control is effective and to use our influence with him to make it more effective. In this connection the Embassy might propose a draft of a letter from President Kennedy to President Diem based on General Taylor's recommendations. Such a draft could state that in the interest of the defense of Viet-Nam and of our heavy commitment there the U.S. considers it essential for President Diem to create an effective Internal Security Council with real executive responsibilities headed by a person of stature who would be loyal to Diem and respected by his colleagues. All government business would have to pass through the Internal Security Council. We should also request him to confirm to us the name of his successor. Other recommendations could include a real unification of intelligence functions. To obtain Diem's real concurrence it would have to be made clear that these moves were essential parts of the Counterinsurgency Plan which Diem agreed to carry out. It would also have to be implied quite understandably that if he did not, we would have to reconsider our policy towards Viet-Nam. Such a letter would require a prior decision that we would be prepared if necessary to run the risk of suddenly withdrawing our support from Diem and of almost simultaneously throwing our weight behind the most likely replacement. Such a move would require preparation, secrecy, surprise, and toughness.

181. Letter From the Assistant Secretary of State for Far Eastern Affairs (McConaughy) to the Ambassador in Vietnam (Nolting)/1/ Washington, October 20, 1961. /1/Source: Washington National Records center, RG 84, Saigon Embassy Files ERC 68 A 5159, New Command Arrangements 1962. Top Secret; Official-Informal. A handwritten note in the top margin reads: "Rec'd 11/2/61."

 

On October 21, 1961, Maxwell Taylor and some members of his mission, accompanied by representatives of the Military Assistance Advisory Group, Embassy staff, and Vietnamese officials, left Saigon for a 2-day tour of the countryside. In his memoirs, Taylor wrote that one of the days was spent in the north near the demilitarized zone and the other flying over the Mekong Delta. (Taylor, Swords and Plowshares, page 239) Although there are passing references to this trip in other documents in this chapter, no other documentation on the trip has been found. 183. Editorial Note

 

b. Lo sợ Mỹ thay đổi chính sách:

Từ sau cuộc đảo chính hụt 11/11/1960, anh em Diệm-Nhu-Thục luôn luôn lo sợ Mỹ thay đổi chính sách.

Trong hai năm 1960-1961, Đại sứ Lalouette ít nhất hai lần dò hỏi Đại sứ Durbrow về việc liệu chính phủ Mỹ có thay đổi chính sách với miền Nam, hoặc gia đình họ Ngô hay chăng.

Tình hình chính trị và quân sự tại Lào và diễn biến cuộc thương thuyết Hiệp ước Geneva 1962, bảo đảm nền trung lập của chính phủ liên hiệp Lào, cũng khiến Diệm và Nhu lo sợ Mỹ bỏ rơi miền Nam. Ngày 19/10/1961, khi gặp Lansdale, Nhu không dấu sự lo sợ rằng diễn biến ở Lào được coi như sự bỏ rơi chính sách chống Cộng, và giải kết Liên phòng Đông Nam Á.

Saigon, October 21, 1961.

SUBJECT Talk with Nhu, 19 October

Ngo Dinh Nhu invited me to visit him the morning of 19 October. I did so, . . . . met Nhu in his office in Freedom Palace.

The substance of Nhu's remarks were:

The events in Laos have given a psychological shock to anti-Communists in Asia. The governments of Thailand, Vietnam, Formosa, Korea, and the Philippines have expressed disapproval of events in Laos, on a government level. This may give the impression that it is only the governments which are concerned, and not public opinion. Just the opposite is true. The Asian man-in-the-street is profoundly affected.

For example, in South Vietnam the Communist guerrillas now present themselves in the villages as having just come from the successful Communist forces in Laos. This is not true, of course, but it is very effective psy war on the Vietnamese villagers.

The shock of Laos does not seem to be understood in the West. The West apparently looks upon this as governmental actions to blow up the Laos situation for their own ends. However, to the citizens in Asian countries, the events in Laos mean the end of SEATO and that the U.S. is now ready to abandon all anti-Communists. Therefore, the Asians are becoming demoralized.

The biggest weak point of the U.S. is the lack of psychological action on the world. There seems to be no unity of theme or action. The important thing is to make the people know what the U.S. wants. For example, during a visit to Morocco this summer, I noted an almost complete absence of U.S. propaganda. The journalists in Rabat asked about the meeting of the neutralists in Belgrade. After giving them some frank opinions on the neutralists, the journalists commented: "You have shown us the other side of the moon."

The Free World, including the Government of Vietnam, is working against Communism in an administrative fashion. This way of working doesn't create a movement of opinion. Without a movement of opinion, there can be no quick action. The Government of Vietnam is incapable of creating a great movement, even though it is doing many things.

Western propaganda against Communism doesn't exist. Western journalism often attacks the West and puts the West in the wrong. That's why people here were awaiting General Taylor's visit, to create a psychological shock both in South Vietnam and in North Vietnam. The visit is very important from the psychological standpoint.

Public opinion in Vietnam has it that General Taylor's mission has the power of decision, which I realize is not true. That's why I think there should be something in the communiqué about a decision. Perhaps the statement could be in the form of saying: "Something needs doing in Vietnam, but I am not saying just what right now. I am going back to Washington, where the decision will be made." (Comment: It was suggested that Nhu might touch on this topic when he talks with Dr. Rostow, which he intends to do./2//2/No record of a conversation between Nhu and Rostow was found. Nhu agreed.)

 

The Communists make use of human capital to wage their subversive war. They can do all sorts of things with this human capital, such as terrorism and blackmail. After the Geneva Agreement in 1954, the Communists regrouped people for later efforts. 60,000 were readied for Cochin China, 40,000 for Central Vietnam and the High Plateau, and 35,000 for Cambodia. 10,000 of the people for Cambodia were Cambodians taken to the North from Cambodia itself.

The key point in Communist doctrine is the belief in eventual victory. It is essential. You don't find this in the Free World. Everybody seems paralyzed by the prospect of Communist victory. Therefore, we have the serious problem of stopping this decomposition. Since 1945, the Free World has been thinking that it can defeat the Communists by strategic solutions. We want to fight the Communists by victory. This is exactly as though we were to say, "In order to win the war, you need victory." People think this is easy and this is the Western point of view.

In the Western world, we have the human capital of freedom. This is something that everybody has. So, this is not only the capital, but it also can be the motive for action. So, the equation is made: "To win the war, you must have liberty."

In countries not yet free, if you apply this equation to them, you are going to be beaten: "To be a developed country, don't be underdeveloped. You must not let yourself be attacked by the Communists. If you are attacked, you are guilty." It is felt that liberty exists without economics. Socialism has attacked capitalism on this very point.

Normally, when a house starts burning down, people help and call the firemen. Now this has changed. If your house burns down, you are somehow guilty. Those who come to aid you are somehow guilty, too. That's the history of Laos, and of other Asian countries. The Laotians feel they are guilty. Why did they provoke the Communists by wanting to be independent? Because they wanted to choose their own friends in the West freely, they were attacked by the Communists.

Now the Laotians who sought liberty are being called corrupt. Phoumi and Boun Oum are labelled "reactionaries". Souvanna Phouma and Kong Le are labelled "pure". Nobody says that Souvanna Phouma holds lots of economic resources, that the bank and the airline are his. Not a single reporter in the Free World seems to want to talk about that. Nobody points out that Kong Le has several wives and a Chinese concubine. At the same time, Western reporters say that Diem, Phoumi, and so on, are corrupt. Why? Because they were attacked by the Communists. So, in some way, they are guilty and all that is needed is to look for the details of guilt.

Until now, Cambodia has been fine. However, Cambodia wouldn't be looked upon so favorably if it were realized that it can be taken over by the Communists in 48 hours. Actually, Cambodia is not strong, is not to be counted upon.

Apparently, the U.S. Embassy in Phnom Penh reported to Washington a few months ago that there were no Communist concentrations in Laos, that any reports to this effect were Vietnamese inventions aimed at getting increased U.S. aid for South Vietnam. 3 Word of this report seeped from the French military experts in Cambodia who claimed to have collaborated in the American report. This is the kind of false information which doesn't inform Washington properly.

In hearing of this report, the Vietnamese then asked Washington for aerial reconnaissance of the Cambodian frontier./3/ This request was mainly in order to be certain that Washington had the correct information. The Cambodian frontier is truly fantastic as far as Communist military camps go. The Vietnamese have little capability for professional aerial reconnaissance. The Americans can do it so much better themselves.

/3/Not further identified.

In order to believe a report that there are no Communists in Cambodia, you would have to believe that the Communists have given up guerrilla warfare. Everybody knows that one of the cardinal principles of guerrilla warfare is to have bases on a border. Essentially, if the Communists gave up this principle, they would have to give up Communism. Communism which doesn't expand isn't Communism.

The Communists in South Vietnam are waging war in a brutal fashion. They rely heavily on terror. They are applying military doctrine, not Mao Tse Tung's doctrine.

The present Communist doctrine in South Vietnam appears to be: the sum of tactical victories establishes a favorable strategic situation. The tactical actions are not political, but lead towards the hope of victory. This puts the population off balance, without time enough to organize itself for defense.

There is much lack of unity in Communist forces in South Vietnam. Some of the Communist cadre are not in agreement with Hanoi's policy of terror. But, they can't get out of it. They are too enmeshed in the gears of Communism. Mostly, these are the people who were in the 1945-1954 war. During that war, they were favored by the population, which loved them. Now, due to the terror campaign, they are feared and hated. Many of the prisoners, and the Communists who defect, have told this.

We Vietnamese are not applying the same doctrine of the sum of tactical victories. We are looking for decisive battles. This is a real mistake. We must increase the number of ambushes of the Viet Cong, the tactical victories.

At a recent meeting in Ban Me Thuot, with local civilian and military officials, we went over details of the local problem. Frankly, they were not really waging war against the Communists there, either in civic or military action. The main reason was the old one of a lack in Asians of using systematic procedures. The Communists apply a Germanic system, in a very methodical manner. Communism is a Western movement, applying method and a thorough followthrough which really is quite foreign to Asians.

The Vietnamese is intelligent, but lacks the methodical spirit. Each takes action, but not systematically. If things don't work, they feel the reason must be elsewhere. In the two recent reverses in the High Plateau, garrisons were swept away and the troops coming to their relief were ambushed. The local officials admitted that they had previous information of possible attack, but that the commanders and troops involved were not vigilant enough. How does it happen then that nobody has learned the lesson? It is because orders were poorly given. (Comment: Nhu then explained the new orders that were to be given. Troops going to the relief of an attacked garrison are to have the primary mission of liquidating the Viet Cong ambush on the line of march. Otherwise, the commander will just rush his troops to the beleagured garrison in single file, be ambushed, and never get there. Thus, the new orders will be: don't say go to the rescue, but give the mission as annihilate the ambush. By provoking ambushes, you can retain the initiative. This can be called "drawing the tiger out of the forest".)

The military always say, "we don't have intelligence", to excuse inaction. But, with the present system, there is exploitable information. Admittedly, there is a need for more organization. (Comment: Here I interposed a question about the Central Intelligence Organization. I said that the Americans wanted the Vietnamese to win, that we had really counted on Nhu himself to act strongly on getting this CIO started dynamically and meaningfully. From various reports, this seemed to be going slowly.)

People put the problem the wrong way. The Intelligence cadres on the higher levels have not been trained. The Americans have been helping, but they trained the lower-level cadres, in large numbers. Not the chiefs, though. In the old days, the French directed everything from the top. Now, the Americans have promised to train the chiefs. But, the chiefs have not been trained, and without trained chiefs, there is nobody to direct the effort.

This is an example of accusing an underdeveloped country of being underdeveloped. I am accused of many things. Probably the accusations are correct, because I have to substitute for ministers in a lot of matters. The communists say that I take care of everything, probably so that I'll be paralyzed by the fear of being criticized. But, then, people say that I am responsible for the bad things, never the good things. I'm afraid that I've let myself become paralyzed by the fear of criticism.

(Comment: The meeting was breaking up. I reassured him firmly that we wanted Vietnam to win and that we were counting on his personal help strongly.)

Edward G. Lansdale/4/

/4/Printed from a copy that bears this typed signature.

182. Memorandum From the Secretary of Defense's Deputy Assistant for Special Operations (Lansdale) to the President's Military Representative (Taylor)/1/ Saigon, October 21, 1961. /1/Source: Washington National Records Center, RG 84, Saigon Embassy Files: FRC 66 A 878, Vietnam-Taylor. Secret. Copies were sent to Nolting and Rostow. The source text is apparently Nolting's copy.

 

Ngày 10/7/1962, đích thân Kennedy phải viết thư trấn an Diệm là không thay đổi chính sách từ ngày nhiệm chức, và sẽ tiếp tục giúp VN tự bảo vệ và chiến thắng CS. Riêng tại Lào, nếu không trung lập, sẽ là chiến tranh. Trong buổi họp thượng đỉnh với Khrushchev tại Vienna ngày 3-4/6/1961, điều duy nhất Khrushchev chịu hứa với Kennedy là chỉ bảo đảm duy trì độc lập và trung lập của Lào. Bởi thế Kennedy yêu cầu Diệm đồng ý ký hiệp ước Geneva về Lào (23/7/1962). Sau nhiều giờ thuyết phục Diệm, phải tới lúc từ Dinh Gia Long trở lại Tòa Đại sứ, Nolting mới được thông báo là Diệm đồng ý. (48)

Có lẽ vì mối lo ngại canh cánh bên lòng này, ngày 21/7, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu còn nêu lên vấn đề liệu Nga Sô có kiềm chế Trung Cộng hay CSVN tại Lào. Và, khi TNS Mansfield hoàn tất bản báo cáo vào cuối năm 1962, phản ứng của họ Ngô giận dữ khác thường–khởi đầu một chuỗi những dữ kiện được biết như “cơn điên cuồng [hay mê sảng] của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Ngs hoàng.”

Ngoài ra, cần đề cập đến không khí hòa hoãn đặc biệt giữa Mỹ và Nga vào cuối năm 1962, đầu 1963. Tháng 12/1962, Nikita S. Khrushchev đề nghị hai siêu cường nên hạn chế cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử. Ngày 10/6/1963, Kennedy đáp ứng bằng bài diễn văn tại Đại học American ở Kentucky, kêu gọi tiến về một nền hòa bình thế giới. Khrushchev hết lời ca ngợi, và sau đó, đại diện Mỹ, Bri-tên cùng Nga bắt đầu thương thuyết về hạn chế thí nghiệm bom nguyên tử. Ngày 5/8/1963, Hiệp ước cấm thí nghiệm nguyên tử trên không gian, trong khí quyển và dưới đáy biển [The Treaty Banning Nuclear Weapons Tests in the Atmosphere, in Outer Sapce and Under the Water] tại Mat-scơ-va (14 UST 1313) càng khiến Diệm-Nhu lo sợ hơn về sự thay đổi chính sách chống Cộng của Mỹ tại Nam Việt Nam. Trong buổi nói chuyện với 15 Tướng tại Bộ Tổng Tham Mưu ngày 30/8/1963, Nhu tuyên bố mật vụ Mỹ đang gia tăng nỗ lực lật đổ chính phủ Diệm từ sau ngày ký hiệp ước cấm thử bom nguyên tử. ( 49)

Việc thay thế Đại sứ Nolting bằng Lodge vào giữa năm 1963 càng tăng thêm nỗi hãi sợ bị bỏ rơi của họ Ngô. Nhu dùng tiếng “Toàn quyền” để gọi Lodge, trong khi Diệm hờn oán sai Thuần cho Truheart biết Diệm rất bất mãn việc thay đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. và nghi rằng Mỹ đang thay đổi chính sách, bắt Diệm phải làm theo Mỹ hay sẽ bị loại bỏ [Diem thought a new American policy was involved and an effort to force him to do our bidding or to unseat him]. Diệm cũng tuyên bố dẫu có gửi 10 Lodge tới Sài Gòn, vẫn phải huấn luyện pháo binh bắn vào Dinh Gia Long [“they can send ten Lodges, but I will not permit myself or my country to be humiliated, not if they train their artillery on this Palace”]. (50) (Ngày 1/11/1963, Thiếu úy Hoàng Nguyên của Pháo binh Sư đoàn 5 là sĩ quan tiền sát điều chỉnh tác xạ vào Thành Cộng Hòa và một số mục tiêu khác)

Phía sau hậu trường chính trị, Nhu tìm cách giảng hòa với Pháp, hy vọng dùng Pháp để giảm bớt áp lực Mỹ. (Kế hoạch này đã khởi xướng từ năm 1961). Có lúc Nhu còn xa gần nhắc đến Trung Cộng. Và, đáng sợ hơn nữa, nuôi ý định ve vãn Cộng Sản.

 

c. Lo sợ Mỹ bỏ rơi họ Ngô:

Mối lo ngại này chẳng phải vô bằng chứng. Từ sau cuộc Trưng cầu truất phế Bảo Đại ngày 23/10/1955, các viên chức Mỹ và dư luận thế giới đối diện một sự thực khó thể chối cãi là chế độ Diệm độc tài, gia đình trị, và giáo phiệt. Ngay những người thân cận cũ trong nhóm Bạn Mỹ của Việt Nam không dấu sự hoài nghi khả năng của anh em Diệm.

Ngày 24/1/1962, Giáo sư Wesley R. Fishel của Đại học Tiểu bang Michigan [MSU] tiết lộ rằng chế độ Diệm đã xa rời quần chúng, chống đối ngày một nhiều. Lần đầu tiên sau bảy năm rưỡi thân thiết với họ Ngô, Fishel cảm thấy bi quan về hiện tình VNCH. Trong hai năm rưỡi qua, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tâm lý đã ung hoại sâu xa. Về kinh tế, những tiến bộ ít năm trước bắt đầu xoay chiều, phần vì lũ lụt, phần vì VC gia tăng hoạt động. Năm nay [1962], VNCH không xuất cảng được gạo. Trong khi đó, Đảng Cần Lao của Nhu xen vào các hoạt động kinh tế, tạo nên những hậu quả tai hại. Về quân sự, sự gia tăng lính Mỹ cùng trực thăng khiến tình hình khả quan hơn, nhưng chẳng hiểu ưu thế ấy giữ được bao lâu. VC và Trung Cộng chắc chắn sẽ có phản ứng. Những chuyến thăm vùng Cao nguyên và đồng bằng Cửu Long khiến Fishel lo ngại rằng VC sẽ khởi sự tấn công trong vòng ít tuần nữa. Về chính trị và tâm lý, tình hình VNCH đang ở mức thấp nhất. Hy vọng và sự hứng khởi của những năm 1955-1956 đã lịm tắt. Một cảm giác hận thù phảng phất trong không gian. Trong vòng 4 tuần lễ viếng thăm Việt Nam, Fishel đã nói chuyện với 118 người quen cũ, không ai thuộc thành phần đối lập, và ít nữa hai phần ba còn theo Diệm năm 1959, tất cả đều bày tỏ mối sợ hãi chung là Cộng Sản đang chiến thắng (Viet Cong are coming). Diệm ngày càng bị trói buộc bởi “những vùng ảnh hưởng ác quỉ” (evil influences) chung quanh. Chưa ai buộc tội Diệm làm sai, nhưng Diệm không chịu sửa đổi những lỗi lầm của người chung quanh. Vài ba người can đảm còn ở quanh Diệm không dám nói thẳng với Diệm những điều “chói tai” vì có thể Diệm sẽ cách chức họ, và các “ảnh hưởng ác quỉ” sẽ thay họ bằng tay chân chúng. Ai là những ảnh hưởng ác quỉ này? Theo Fishel, Nhu và vợ [Lệ Xuân] luôn luôn đứng đầu bảng. Lý thuyết của Nhu đã thất bại, nhưng cả Diệm lẫn Nhu chưa chịu nhìn nhận. Lệ Xuân–thông minh, sinh động, dơ dáy và tàn bạo theo kiểu Borgia [as brillant, vivacious, bitchy, and brutal in her Borgia-like fashion as ever]–làm các giai tầng xã hội xa cách chế độ của người anh chồng ở lúc mà Diệm cần sự yểm trợ của họ. Lệ Xuân đã bảo trợ việc biểu quyết một đạo luật “trong sạch hóa xã hội;” cấm khiêu vũ, thuốc ngừa thai, và kiểm soát việc ăn mặc, tỏ tình nơi công cộng, v.. v... Sự áp dụng mù lòa giáo điều Ki-tô này sẽ khiến chia rẽ các tín đồ Ki-tô và những người Lương, tạo nên sự căng thẳng mà trước đó ít khi xảy ra. Ngoài ra, còn có nhân vật tham vọng Nguyễn Đình Thuần, người cũng bị ghét như vợ chồng Nhu. Viện trợ Mỹ, theo Fishel, chỉ giúp những ngón tay và ngón chân của VNCH cử động; nhưng thân mình vẫn bất động. Nếu không có một cú kích xúc tâm lý quan trọng trong vài tháng tới, không còn cách nào cứu vãn miền Nam. Theo Fishel, cần phải loại bỏ vợ chồng Nhu mới hy vọng tạo nên được cú kích xúc tâm lý khả dĩ. (51)

Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, lãnh tụ khối đa số, người đỡ đầu của chế độ Diệm và từng ba lần cứu nguy cho Diệm trong hai năm 1954-1955, cũng bắt đầu đổi ý. Cuối năm 1962, sau một chuyến thăm Việt Nam, Mansfield kết luận là Mỹ phải duyệt xét lại chính sách, vì sau khi đã trút vào miền Nam nhiều tỉ [hơn hai tỉ] Mỹ kim, tình hình an ninh đã trở lại với giai đoạn Diệm mới lên cầm quyền.

Nguyên văn: “Indeed, it was distressing on this visit to hear the situation described in much the same terms as on my last visit although it is seven years and billions of dollars later. Vietnam, outside the cities, is still insecure place which is run at least at night largely by the Vietcong. The government in Saigon is still seeking acceptance by the ordinary people in large areas of the countryside. Out of fear or indiferrence or hostility the peasants still withhold acquiescence, let alone approval of that government. In short, it would be well to face the fact that we are once again at the beginning of the beginning. . . . The real question which confronts us, therefore, is how much are we ourselves prepared to put into Southeast Asia and for how long in order to serve such interests as we may have in that region? Before we can answer this question, we must reassess our interests, using the words “vital” or “essential” with the greatest realism and restraint in the reassessment. When that has been done, we will be in a better position to estimate what we must, in fact, expend in the way of scarce resources, energy and lives in order to preserve those interests. We may well discover that it is in our interests to do less rather than more than we are now doing. If this is the case, we will do well to concentrate on a vigorous diplomacy which would be designed to lighten our commitments without bringing about sudden and catastrophic upheveals in Southeast Asia.” (52)

 

Một số viên chức trẻ tung tin họ Ngô phải ra đi [The Ngos must go]. Đại sứ Durbrow đề nghị “thay ngựa” một cách hợp pháp qua cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 4/1961. Ngày 22/10/1961, Joseph A. Mendenhall, Cố vấn chính trị Sài Gòn, đặt câu hỏi: “Sự vững chắc của chính phủ Diệm ra sao?” (“How stable is the Diem government?”) rồi tự trả lời: “Chính phủ này ít vững chắc hơn so với sáu hay ba tháng trước, và ít vững chắc ngay cả với tuần trước.” (“It is less stable then it was six or three months ago or even than it was a week ago;”) Những cuộc thất trận trong hai tháng 9-10/1961 và cái chết của Đại tá [Hoàng Thụy] Nam “tạo nên tình trạng gần như hoảng hốt ở Sài Gòn” (“have produced an atmosphere bordering on panic in Saigon). Theo Mendenhall, chỉ có hai cách để thay đổi là cuộc cách mạng tại Dinh Độc Lập hay một cuộc đảo chính bằng quân sự. Việt Cộng không đủ sức mạnh lật đổ Diệm trong tương lai gần. (53)

Từ năm 1962, các viên chức Mỹ lại bắt đầu nghiên cứu một giải-pháp-khác-Diệm. Ngày 16/8/1962, trong phiếu trình về tình hình Việt Nam, Mendenhall ghi nhận: Lực lượng Việt Cộng (VC) đã tăng từ 2,000 vào cuối năm 1959 lên 20,000 trong năm 1962. Chính phủ chỉ còn kiểm soát được thành phố và các tỉnh, quận lị. Tình trạng an ninh ngày một tồi tệ hơn. Tổng thống Diệm và sự yếu kém của ông ta là nguyên nhân chính của tình trạng thoái hóa. Hai nhược điểm của chính phủ Diệm là: (1) Chính quyền tổ chức không hữu hiệu, hậu quả của việc Diệm không có những quyết định dứt khoát, không chịu chia xẻ bớt trách nhiệm, không có hệ thống chỉ huy, không nhìn nhận lỗi lầm và thiếu tin tưởng; và (2) thiếu khả năng lôi kéo quần chúng vì Diệm không có những đặc tính của một nhà chính trị. Để chiến thắng VC, cần một chính quyền hữu hiệu hoặc phải được dân chúng mến mộ, nhưng Diệm thiếu cả hai. Ấp Chiến lược không đạt được những kết quả mong muốn. Dân chúng không được bảo vệ kịp thời và đúng mức; chính sách Ấp chiến lược khiến mất lòng dân hơn lôi kéo họ về phía chính quyền. Chính phủ cũng chẳng quan tâm gì đến các khía cạnh xã hội và kinh tế trong các Ấp Chiến lược. Chẳng có cơ hội nào khiến Diệm và Nhu thay đổi. Diệm đã già (65 tuổi) và không bỏ được lề lối quan lại. Diệm và Nhu đều nghĩ rằng họ biết người Việt hơn ai hết, vì thế ít khi nhận lời khuyên can. Cả hai đều không tin cậy người ngoài gia đình và họ không thể thay đổi nguyên tắc “chia để trị.” Không thể thắng VC với cách làm việc của Diệm-Nhu, và dù áp lực cách nào đi nữa, Diệm-Nhu cũng không chịu thay đổi lề lối làm việc. Đề nghị: Loại bỏ Diệm, vợ chồng Nhu, và tất cả những người trong họ Ngô. (54)

Phó Phụ tá Ngoại trưởng đặc trách Viễn Đông vụ, Edward E. Rice, phê bình: “Có vẻ như một việc rất phức tạp và không dễ giữ bí mật trước khi thi hành.” Ngày 17/8/1962, Bạch Cung quyết định rằng báo cáo tháng 5/1961 của PTT Lyndon B. Johnson là căn bản của chính sách Việt Nam: Chính phủ Kennedy tiếp tục làm việc với Diệm vì chưa tìm được người thay. (55)

Đặc biệt, quyết định thay Đại sứ Nolting bằng Lodge vào tháng 6/1963–giữa cơn khủng hoảng Phật Giáo–càng tăng thêm nỗi hãi sợ bị bỏ rơi của họ Ngô. (56)

 

3. Đụng chạm cá nhân với Mỹ:

Sự căng thẳng liên hệ với Mỹ trước hết là do quyền lợi cá nhân của họ Ngô. Anh em họ Ngô không thể hiểu nổi tại sao người Mỹ yểm trợ nhiệt tình miền Nam mà không tiếp tục ủng hộ mọi kế sách do họ đặt ra, và nhất là không thấy được một chân lý: Họ Ngô đồng nhất thể với chế độ chống Cộng Việt Nam Cộng Hòa.

 

a. Mặc cảm “vệ tinh”:

Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị do Mỹ lập nên và cần viện trợ Mỹ để tồn tại, vào khoảng 200-400 triệu MK mỗi năm và ngày càng gia tăng. Họ Ngô hiểu rõ điều ấy hơn bất cứ một ai tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, bản chất liên hệ giữa Nam Việt Nam và Liên bang Mỹ là liên hệ vệ tinh chiến lược, hay patron-client [ông chủ và đầy tớ].( 57)

Trên căn bản đây là thứ liên hệ bất bình đẳng, giữa người cho và người nhận. Nhưng họ Ngô lại muốn được nhìn ngắm và hành xử như lãnh tụ một quốc gia hoàn toàn độc lập, có khả năng tự túc, tự cường, một “chí sĩ,” “lãnh tụ anh minh” của toàn quốc dân Việt Nam. Trên nóc một doanh trại trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, chẳng hạn, có một khẩu hiệu khổng lồ: “Một lãnh tụ: Ngô Đình Diệm; Một lý tưởng: chống Cộng.” Trong các rạp chiếu bóng, mỗi đầu xuất phim, ai nấy phải đứng lên nghiêm chỉnh chào quốc kỳ và suy tôn Ngô Tổng thống. Những lời “có vấn” của Mỹ, bởi thế, không được đón nhận một cách cởi mở, phục thiện, mà thường tiềm ẩn mặc cảm xin xỏ, nhờ vả. Hệ thống tuyên truyền Cộng Sản–ngày đêm ra rả bêu riếu chế độ Diệm là “bù nhìn,” “ngụy quyền,” “tay sai đế quốc Mỹ,” “buôn dân bán nước”–khoét sâu hơn sự ngăn cách giữa họ Ngô với chính phủ Mỹ. (Thực ra, chế độ VNDCCH cũng chẳng vinh dự gì hơn–nói theo Trường Chinh và Nguyễn Ngọc Minh [Trần Văn Giàu], chỉ là một tiền đồn của Trung Cộng, với nhiệm vụ chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, đổi lấy vài chục tỉ viện trợ suốt cuộc chiến)

Ngày 12/4/1963, khi tiếp chuyện một viên chức CIA ở Sài Gòn [Richardson?] Nhu tuyên bố gần trọn đời Diệm đã chống lại sự đô hộ của Pháp [sic], thật tế nhị [sensitive] nếu sự trợ giúp của Mỹ hàm chứa bóng tối của tình trạng bị bảo hộ hay “condomunium.” Không thể định chế hóa liên hệ Mỹ Việt. Ngoài vấn đề định chế [institutional] và luật pháp [juridical], Nhu sẵn sàng hợp tác chặt chẽ với Mỹ. (58)

Vào trung tuần tháng 9/1963, cơ quan CIA trình lên Kennedy “Vấn đề Nhu” [Problem of Nhu] như sau: Nhu có tinh thần chống Mỹ, cáo buộc Mỹ là thực dân, phong kiến, đang muốn biến Nam Việt Nam thành chư hầu. Nhu tung tin một số viên chức Mỹ nằm trên danh sách sẽ bị thủ tiêu. Nhu nói rằng Mỹ phải giảm áp lực vì đang đe dọa nền độc lập của Nam VN. Nhu liên tục nói dối với Lodge và chánh sở CIA Sài Gòn về vai trò của mình trong cuộc tấn công chùa chiền (20/8/1963). Nhu thường nói nếu Mỹ cắt viện trợ sẽ có nguồn viện trợ khác. Nếu không có viện trợ, Nhu sẽ tìm cách thương thuyết với Hà-Nội. Tin Nhu bắt đầu thương thuyết với Hà Nội lan truyền rộng rãi, khiến tinh thần binh sĩ hoang mang. Nhu tin rằng chỉ có Nhu mới cứu được Việt Nam.( 59)

 

b. Khác biệt trong ước muốn viện trợ:

Trong giai đoạn 1955-1959, kinh viện của Mỹ cho Việt Nam được quản trị qua quĩ song hành [“counterpart fund” financing]: Các nhà nhập cảng Việt sẽ mua hàng hóa cần thiết (như phân bón, thép, máy móc, xe hơi và xi-măng) qua chương trình nhập cảng. Chính phủ Mỹ sẽ trả tiền trực tiếp cho các người bán; và các nhà nhập cảng Việt sẽ trả bằng tiền Việt Nam vào một quĩ song hành đặc biệt. Quĩ này sẽ xuất chi cho chính phủ Nam Việt Nam trên những điều thỏa thuận, đặc biệt là trả lương quân nhân, công chức. Khoảng 80% quĩ song hành đặc biệt dùng cho việc quốc phòng. Từ năm 1955 tới 1959, vì triệt để tôn trọng nền độc lập của VNCH, người Mỹ không hề ra một điều kiện nào để đổi lấy viện trợ, ngoại trừ chính sách chống Cộng. Vì không có điều kiện tiên quyết, nên Mỹ khó áp lực được Diệm. Nhưng từ năm 1956, Nhu thuyết phục Diệm dùng viện trợ Mỹ để phát triển đảng Cần Lao. Rồi đến Giám mục Thục muốn dùng viện trợ Mỹ cho các giáo mục. Theo Chester Cooper, một nhân viên Hội đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ, “Từ đó, khởi đầu sự tham nhũng do chính phủ bảo trợ làm lũng đoạn miền Nam dưới chế độ Diệm.” (60) (Thực ra, tham nhũng và hối mại quyền thế là một di sản hàng ngàn năm của các nước Á Châu, bất kể màu sắc ý thức hệ hay tôn giáo–từ Ki-tô Philippines, Phật giáo Thái Lan và Myanmar, tới Islam ở Indonesia và Malaya, “định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Trung Cộng, Việt Nam hay Bắc Hàn).

Trên nguyên tắc, họ Ngô không hài lòng với cách viện trợ của Mỹ. Thứ nhất, viện trợ Mỹ không tháo khoán cùng một lúc mà chỉ tháo khoán theo thời kỳ, cho từng chương trình viện trợ.

Thứ hai, viện trợ Mỹ chỉ được dùng để mua hàng Mỹ, chuyên chở bằng các phương tiện của Mỹ.

Thứ ba, miền Nam chỉ nhận được viện trợ Mỹ và các nước đồng minh thân thiết như Bri-tên, Australia và New Zealand. Pháp viện trợ rất giới hạn về văn hóa và kỹ thuật. Các nước Tây Âu như Tây Germany [Đức], Holland hay Nhật chỉ yểm trợ rất giới hạn.

Họ Ngô muốn được viện trợ theo kiểu Lend-Lease [mua/thuê trả dài hạn], hay cho vay dài hạn với lãi xuất thấp nhưng Mỹ không chấp thuận. (61)

Chiều ngày 2/9/1963, Nhu còn lập lại rằng muốn được vay dài hạn, với lãi xuất thấp, hơn là viện trợ. Như thế người Mỹ tránh được trách nhiệm về những gì người Việt làm.( 62)

Chủ đề Nhu ưa thích nhất là làm một cuộc cách mạng tiến tới tự lực và tự túc. Nhưng, như Nhu than phiền với Đại sứ Nolting vào hạ tuần tháng 5/1963, Nhu đã bị hiểu lầm quá nhiều là bài ngoại hay chống Mỹ. Nhu nhấn mạnh rằng chỉ làm một cuộc cách mạng thực sự (kiểu mỗi gia đình một miếng đất trong khu vực Đồng Tháp Mười và các chiến khu C, D, v.. v..., hay khẩu hiệu “tam giác,” “tam túc”) nhưng bị hiểu lầm, và phá bĩnh bởi những kẻ bên lề. (63)

Từ tháng 9/1963–sau khi bị Mỹ áp lực rời nước–vợ chồng Nhu-Lệ Xuân còn tuyên bố không cần viện trợ Mỹ. Trong bài phỏng vấn trên tờ Espresso của Italia, ngày 10/10, Nhu tuyên bố miền Nam có thể sống còn dù có Mỹ yểm trợ hay không. Nhu muốn Mỹ đối xử với Việt Nam như Yugoslavia, viện trợ tiền nhưng không can thiệp vào nội bộ. “Nếu người Mỹ cắt viện trợ, chưa hẳn đã là điều xấu.” [If the Americans interrupt their help, it may not be a bad thing after all].”( 64)

Ngô Trọng Hiếu cũng tuyên bố “Chúng tôi không cần người Mỹ, trên cả phương diện kinh tế.”( 65)

 

c. Khác biệt trong triết lý hành động:

Họ Ngô tin rằng chỉ có họ mới biết chống Cộng một cách hữu hiệu. Theo họ, người Mỹ không biết gì nhiều về Việt Cộng. (66)

Họ Ngô cũng tin rằng không thể áp dụng thể chế dân chủ kiểu “một chính phủ bao gồm nhiều khuynh hướng chính trị quốc gia.” Diệm chủ trương độc tài hay trung ương tập quyền, theo kiểu Cộng Sản Bắc Việt, nhưng chỉ khoác cho nó lớp xiêm áo dân chủ tượng trưng, trên giấy tờ. Hiến Pháp 1956, chẳng hạn, dành cho Diệm quyền uy tối thượng, như ban hành các sắc luật cần thiết trong trường hợp lâm nguy. Một quan sát viên ngoại quốc, vốn có lập trường chống Cộng vững mạnh, gọi chế độ VNCH là chế độ “Cộng Hòa Nhân Dân chống Cộng” duy nhất trên thế giới; và trong vòng 24 giờ, nếu người ta thay đi lá quốc kỳ [nền vàng ba sọc đỏ], nó sẽ giống hệt miền Bắc. Trong khi đó, dư luận Mỹ nối liền viện trợ với tinh thần dân chủ thực sự, và chẳng ưa thích gì loại “dân chủ Nhân Vị, chậm tiến” của họ Ngô. Sở dĩ năm 1954-1955, chính phủ Eisenhower coi Diệm như cá nhân duy nhất xứng đáng được nhận viện trợ Mỹ vì họ tin rằng độc tài bản xứ không xấu bằng thực dân Pháp, và các viên chức Mỹ tự tin có khả năng “uốn nắn” Diệm theo con đường dân chủ. Nhưng từ Dulles tới Rusk đều sai lầm. Chẳng những là “một nhà tiên tri không có lời rao giảng [a messiah without a message]” Diệm còn nặng mang tinh thần “thánh chiến Trung Cổ” [medieval crusade]. Diệm vừa chống Cộng vừa nặng mang tự ti mặc cảm với các lãnh tụ Cộng Sản, trong khi đánh giá thấp mọi tổ chức và cá nhân chống Cộng không Ki-tô.

Ngày 12/4/1961, Diệm tuyên bố với ký giả Joseph Alsop rằng chính phủ Mỹ không yểm trợ Diệm đúng cách.( 67)

Ngày 6/1/1962, khi gặp các viên chức Mỹ, Diệm cũng qui trách cho lỗi lầm của Mỹ khiến không chống Cộng hữu hiệu. Theo Diệm, sai lầm của Mỹ là không chấp thuận đề nghị xin tăng 20,000 quân VNCH trong chuyến qua Mỹ năm 1957, coi Bảo An như lực lượng cảnh sát thôn quê hơn là quân đội; không xây dựng các trục lộ chiến lược mà Diệm đề nghị. Xen kẽ với các phê bình trên là một cuộc độc thoại miên man về thành tích và kinh nghiệm 40 năm chống Cộng: từng bị Việt Minh bắt giữ sau năm 1945 và bị giam trong một vùng rừng núi Bắc Việt; lý do từ quan năm 1933 là do lập trường chống cả thực dân lẫn Cộng Sản [Diem’s anti-colonialist and anti-communist convictions led to his withdrawal from the French civil service]; và, từ năm 1922, khi khởi đầu hoạn lộ với chức tri huyện, Diệm đã chống Cộng và nghiên cứu về Cộng Sản qua các tài liệu ấn hành ở Switzerland [Thụy Sĩ]. Suốt 40 năm kế tiếp, lập trường này không thay đổi.( II:41-2) Nhưng ngày 26/1/1962, Phụ tá Giám đốc Viễn Đông vụ, Sở Quốc tế An ninh vụ của Bộ Quốc Phòng Mỹ [Far East Affairs, Office of International Security Affairs, DOD], Kent, nhận xét:

Diệm là người không biết san xẻ quyền lực; không biết hòa hài hay nhân nhượng; có ảo tưởng về sự toàn năng của mình. Diệm là một ông quan qua huấn luyện và thừa kế. Ông ta tự cho mình là chính nghĩa, được thần linh hướng dẫn. Ông ta có lẽ thiếu khả năng nhận hiểu rằng lợi ích quốc gia Việt Nam sẽ được phục vụ nếu ông ta rời bỏ quyền lực. Việc nhúng tay vào quân sự của ông ta khiến việc lãnh đạo và chỉ huy bị thiệt hại nặng. Ông ta không có kinh nghiệm về quân sự.” [“Diem is psychologically unable to delegate authority; He is unable to compromise; He has illusions of omniscience. He is mandarin by training and inheritance. His conviction of self-righteousness. He believes that he enjoys divine guidance. He is probably incapable concluding that the best interests of Vietnam would be served if he relinquished power. His hands on the military made the leadership of the armed forces seriously suffered. He lacks military background.” (II:60-2) (68)

 

Họ Ngô không thể chấp nhận những thứ quái lạ như “tự do báo chí” (tự do quá trớn, tự do thiếu trách nhiệm). Cuối năm 1961, họ Ngô cho báo chí VN tấn công chính phủ Mỹ để dạy Mỹ một bài học về cách kiểm soát báo chí. Đầu năm 1962, Diệm còn định viết thư cho Kennedy than phiền về sự “lộng hành” của báo chí Mỹ.( 69)

 

d. Kỳ thị chủng tộc:

Ẩn tàng dưới sự chống Mỹ âm thầm, thẳm sâu trên là mặc cảm bài ngoại [xenophobia]. Người Việt thường có thói quen coi người ngoại quốc như “mọi rợ” hay “ngu xuẩn,” “khờ khạo.” Tiếng thông dụng nhất trong dân gian về một người Mỹ là “mọi da đỏ.” Tiếng thông dụng trong giới có quyền chức là “bàn tay lông lá.” Nhiều sĩ quan cho rằng cố vấn Mỹ chẳng có gì để “cố vấn” được họ, vì họ là những người từng “dày dạn kinh nghiệm trận mạc”–như đóng đồn, khai thông trục lộ, v.. v... dưới sự che chở của đạo quân viễn chinh Pháp.

Ngô Đình Nhu nhiều hơn một lần chê người Mỹ “muốn giúp” mà “chẳng hiểu mô tê gì cả.”( 70)

Mặc dù Nhu có lần khẳng định với viên chức Mỹ là không có tinh thần bài ngoại hay chống Mỹ, việc làm và lời nói của Nhu biểu lộ quá rõ ràng những cá tính này.

 

e. Mặc cảm tự tôn “văn hóa”:

Anh em họ Ngô, đặc biệt là Nhu, còn mang thêm mặc cảm tự tôn văn hóa.

Ngô Đình Diệm, vì chỉ đậu Trung học đệ nhất cấp [Diplôme]–khởi đầu hoạn lộ bằng chức cửu phẩm tập ấm tại Tân thư viện Huế năm 1917, và trong vòng 8, 9 năm thăng tiến lên chức Tuần vũ Phan Thiết–nặng mang tinh thần Ki-tô Vatican trung cổ, phảng phất thứ luân lý Nho giáo phổ thông. Bởi thế, dù ngưỡng mộ xã hội Mỹ và nền văn minh Mỹ, Diệm không chấp nhận được nền văn hóa pháp trị, sự biệt phân giữa nhà nước và giáo hội, hay bầu không khí “dân chủ quá trớn” của nước Mỹ.

Từng tốt nghiệp trường cổ ngữ Chartes (chương trình quản thủ thư viện và văn khố) tại Paris, Nhu quen nói và viết tiếng Pháp hơn tiếng Việt. Ngay vợ và các con Nhu đều theo học trường Pháp. Nhu cho rằng nền văn hóa Ki-tô/thuộc địa mà thế hệ mình thụ hưởng cao thâm hơn nền “văn hóa da đỏ.” Thứ mặc cảm này phần nào vay mượn từ người Pháp. Nhu, theo một nguồn tin, không chịu học tiếng Mỹ, và chỉ chịu đối thoại với các viên chức Mỹ bằng tiếng Pháp hay qua các thông ngôn.( 71)

Mặc cảm tự tôn văn hóa trên, thực ra do lòng tự ti mà thành. Được huấn luyện ở Pháp trong thập niên 1930, trở lại sống trong xã hội bảo hộ và rồi một xã hội nửa-thuộc-địa đang bị chiến tranh tàn phá trong hai thập niên 1940-1950–tức một xã hội chậm tiến hay kém phát triển [underdevelopped], theo cách diễn tả của Nhu–nên Nhu chưa có dịp nghiệm chứng nền văn hóa kỹ-nghệ-hóa của một siêu cường, với những phát kiến đưa nhân loại vào một cuộc cách mạng khoa học chưa hề có tiền lệ, một nền văn hóa vật bản thực dụng, thắng vượt khỏi thứ nền văn hóa vật bản/Ki-tô cứng đọng của Âu Châu. Nhu cũng chưa từng cảm nhận được sự chuyển vận của một xã hội thực sự độc lập, pháp trị hiến định. Tóm lại, Nhu chẳng hiểu gì về người Mỹ, văn hóa Mỹ, cấu trúc xã hội Mỹ ngoài những cảm nhận bình dân. Mặc cảm tự tôn của Diệm-Nhu, ngắn và gọn, là thứ tự tôn văn hóa kiểu Trung cổ.( 72)

Vợ Nhu, một phụ nữ chưa kịp tốt nghiệp trung học, cũng lây cái bệnh “tự tôn văn hóa” trung cổ này. Chung qui cũng do họ bị vây bủa tứ hướng bằng những vách đá “ngu dốt sặc sỡ và điêu ngoa hào nhoáng” lạnh lẽo của những giai tầng tự nhận là “sang cả” [elite] của các xã hội thuộc địa mà Nhu rất thích gọi là “chậm tiến” [underdeveloped].

Là một gia đình thăng tiến vượt mức nhờ theo đạo Ki-tô, hết lòng phục vụ bảo hộ Phàp, lại có một người đi tu lên tới chức Giám mục từ năm 1938, họ Ngô cho rằng tôn giáo Ki-tô của họ là chân lý, và tâm niệm rằng tất cả những người theo đạo khác đều là ác quỉ (Satan). Thái độ kiêu ngạo, cửa quyền của Diệm-Thục đối xử với các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo trong thập niên 1950 và rồi Phật giáo từ năm 1956 tới 1963 là những bằng chứng cụ thể. Cuộc đấu tranh của Phật giáo trong năm 1963, bởi thế, được nhìn ngắm và kết tội như âm mưu chống lại chính quyền, do Cộng Sản và “những tên phiêu lưu quốc tế” giật giây. Anh em họ Ngô tìm đủ cách trình bày cuộc tranh đấu Phật Giáo dưới những góc cạnh xấu xí nhất–như các nhà sư đã biến nhà chùa thành nhà chứa, các sư ni không tự thiêu mà đã bị mưu sát, và hành động tự thiêu chẳng là gì khác hơn “nướng thịt sư,” v.. v... –những lời tuyên bố mà bất cứ ai có lương tâm và giáo dục gia đình cơ bản cũng khó thể phát biểu, nói chi những người đang thực sự cầm quyền một chế độ.( 73)

 

4. Niềm tin vào “Ấp Chiến Lược”:

Chính thức phát động ở Nam Việt Nam từ năm 1962, kế hoạch Ấp Chiến Lược chỉ là một mô hình cải tổ hiện đại trong nỗ lực trị an từ cổ xưa. Hình thái sơ đẳng nhất là các đơn vị “đồn điền” mà Nguyễn Tri Phương đã thực hiện tại miền Nam trong thập niên 1850. Dòng họ Ngô đã có kinh nghiệm gia truyền này từ Ngô Đình Khả, cha họ, một thời là phụ tá của Khâm mạng tiết chế Nguyễn Thân khi đánh dẹp phong trào Cần Vương/Kháng Pháp trong hai năm 1895-1896 ở Hà Tĩnh/Quảng Bình. Đại cương, kế hoạch này nhằm loại bỏ những cán bộ đối nghịch nằm vùng khỏi dân chúng, ổn định tình hình an ninh/trật tự tại các xóm thôn, song song với việc truy lùng và tiêu diệt các đơn vị vũ trang đối nghịch. Ý niệm này được cải thiện dần theo kinh nghiệm đánh dẹp Cộng Sản trong thập niên 1920 và đầu thập niên 1930 của Pháp mà Diệm đã hăng say tham dự, thăng quan tiến chức vượt mức thông thường, nên, nếu tin được lời chứng của Ngô Đình Thục, Cộng Sản phải gửi sát thủ người Hoa ra tận Phan Rang thanh toán, nhưng Diệm chỉ bị thương. Đầu thập niên 1940, Pháp sử dụng chiến thuật “vét láng” tại vùng thượng du Bắc Việt. Đầu thập niên 1950, Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí thực hiện khu trù mật Đồng Quan, và các làng chiến đấu ở đồng bằng Bắc Việt.

Từ năm 1961, Ngô Đình Diệm đã chọn kế hoạch của Robert Thompson, một chuyên viên Bri-tên từng thành công trong việc diệt Cộng ở Malaya, lúc đó cầm đầu Đoàn cố vấn Bri-tên tại Sài Gòn. Nhưng kế hoạch Ấp Chiến Lược của Diệm-Nhu được tổ chức qui mô hơn, trên bình diện quốc sách.

Những thắng lợi nho nhỏ vào đầu năm 1962 khiến họ Ngô lạc quan thái quá. Thực ra, những chiến thắng này phần lớn do việc tăng cường hỏa lực Mỹ (thiết vận xa, trực thăng, khu trục, bom đạn, và nhất là thuốc khai quang mà Diệm nhiều lần thúc dục Mỹ sử dụng, trong khi Tổng thống Kennedy không hoàn toàn ủng hộ vì biết rõ những hậu quả tệ hại cho môi sinh), và chiến thuật “diều hâu” (đổ quân bằng trực thăng). Họ Ngô cũng không thể dự đoán được phản ứng của CSBV nhằm phá hoại quốc sách này: Gài nhân viên tình báo chiến lược tìm hiểu và phá hoại, vận động dân chúng phá Ấp Chiến Lược, và nhất là sử dụng cơ quan tuyên truyền quốc tế, qua Nga và Trung Cộng, để lên án Ấp Chiến lược là “trại tập trung,” v.. v...

Bởi thế, họ Ngô tin tưởng rằng Ấp Chiến Lược, một khi hoàn tất và củng cố, sẽ khiến Bắc Việt tự động ngưng lại tham vọng chiếm miền Nam bằng vũ lực.( 74)

Ngày 30/8/1963, Lalouette cũng san xẻ với họ Ngô nhận định chủ quan rằng cuộc chiến tranh du kích sẽ sớm kết thúc trong vòng 1, 2 năm. Việt Cộng hiện đang chán nản và tinh thần miền Bắc xuống thấp. Khi cuộc chiến du kích chấm dứt, chính là miền Nam, lúc ấy sẽ mạnh hơn miền Bắc, sẽ đề nghị hiệp thương, trao đổi gạo miền Nam lấy than miền Bắc. Điều này có thể dẫn tới việc thống nhất đất nước với miền Nam vượt thắng [“In a year or two the guerrilla danger might be ended. The Viet Cong are very discouraged and morale is very low in North Vietnam. . . . When the guerrilla war is ended, it might be for the South Vietnamese, who would be stronger than the North Vietnamese, to propose trading some of their rice for North Vietnamese coal. This might lead towards a unified Vietnam with South Vietnam the dominant element. But all of this was remote.”]. Lối suy luận đơn giản, kiểu tháp ngà này, chứng tỏ cả Diệm-Nhu lẫn Lalouette chẳng biết gì hoặc đánh giá sai lầm về khả năng kiểm soát dân chúng hay quyết tâm nhất thống đất nước của chính phủ VNDCCH và Đảng CSVN. Lalouette cũng như họ Ngô cũng chẳng biết gì về bài học lịch sử cận kim Việt Nam: Vì chủ trương thống nhất ba miền, Hồ đã chấp nhận chiến tranh chống Pháp năm 1946. (75)

Chiều Thứ Sáu, 6/9/1963, Nhu tuyên bố với nhân viên CIA rằng chiến tranh du kích sẽ nghiêng về phía miền Nam vào cuối năm 1963 và trong tương lai VNCH và Mỹ có thể thương thuyết với miền Bắc ở thế mạnh [at some future time SVN and US might be able [to] negotiate with North Vietnam from position of strength]. Không một chính phủ nào, theo Nhu, có thể thương thuyết với miền Bắc dù công khai hay bí mật, ngoại trừ trường hợp đã thắng cuộc chiến tranh du kích và cũng không với điều kiện trung lập mà phải trong khuôn khổ một miền Nam mạnh tìm cách kết hợp miền Bắc vào Thế Giới Tự Do. (76)

Thực tế, việc thực hiện Ấp Chiến Lược không tiến triển tốt đẹp như họ Ngô ảo tưởng. Ngày1/5/1963, Rufus Phillips, Phó Giám đốc USOM, nhận định rằng mặc dù trên lý thuyết Ấp Chiến Lược thật tuyệt hảo, nhưng việc thực thi gặp nhiều khó khăn lớn: thiếu sự hiểu biết về nguyên tắc Ấp Chiến Lược, và thiếu ý chí thực hiện. Các viên chức mọi cấp khiến dân chúng xa lánh hơn là ngả theo chính phủ. (77) Vào tháng 9/1963, Phó Tổng thống Thơ vẫn hoài nghi hiệu quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược, và nhận xét rằng toàn quốc chỉ có chừng 20-30 ấp được phòng thủ tốt. Dân chúng không chỉ ở lại các làng xóm vì bị VC đe dọa mà vì họ bất mãn chính phủ. (78)

 

5. Dự đoán sai lạc về thực lực Cộng Sản:

Không kém quan trọng, cuộc chiến chống Cộng đang bị thất lợi. Việt Cộng không những chỉ khủng bố, ám sát các viên chức hành chính nông thôn hẻo lánh, mà còn dám tấn công cả những đơn vị lớn của VNCH. Các trận đánh Tua Hai (Tây Ninh, 1960), Pleiku (công trường làm đường, 1960) hay Quảng Ngãi mới chỉ là khởi đầu. Đáng sợ hơn nữa, Việt Cộng trở thành những bóng ma, khi ẩn khi hiện bất thường. Du kích Cộng Sản hoàn toàn nắm thế chủ động.( 79)

Nhưng họ Ngô, như đã lược nhắc, vẫn cả tin rằng phe miền Nam đang thắng to, và có thể giải phóng được miền Bắc. Niềm tin này đi ngược với thực tế chiến trường.

Để đáp ứng sự tăng gia viện trợ quân sự Mỹ, BV điều động một số binh đội từ Lào vào Việt Nam, và tăng cường thêm cán bộ. Ngày 25/12/1959, toán cán bộ hồi kết B-500, gồm 25 người, lên đường vào Nam. Cầm đầu là Tư Chương (Tăng Thiên Kim, sau này là Trung đoàn trưởng Q.761); Đặng Ngọc Sĩ (sau này là Tư lệnh đặc công B-2) làm Phó. Hoạt động ở Cao nguyên, tới miền Nam vào đầu tháng 12/1960.( 80) Theo tài liệu CS, từ 1961 tới 1963, hơn 40,000 cán binh được đưa vào “B” [miền Nam], cùng 165,000 vũ khí đủ loại, đủ trang bị 73,000 tân binh miền Nam. Năm 1963, đích thân Trần Văn Trà cũng từ Lào vào “B,” nắm chức Tư lệnh “lực lượng võ trang giải phóng miền Nam Việt Nam.”( 81)

Tính đến ngày 1/7/1963, tức hơn một năm sau ngày phát động quốc sách Ấp chiến lược, VNCH kiểm soát được khoảng 6,766,000 dân trên tổng số 14.8 triệu. Tuy nhiên, chỉ hoàn toàn kiểm soát khoảng 3.5 triệu, giảm đi 100,000 người. Số làng chính phủ kiểm soát là 939, với 741 làng hoàn toàn. Việt Cộng kiểm soát 431 làng, kể cả 375 làng hoàn toàn. (82)

Từ mùa Thu 1961, Trung Ương Cục Miền Nam đã được tái lập. Ngày 1/1/1962, Đảng bộ miền Nam Đảng Lao Động (tức CSĐD) chính thức lấy tên là Đảng Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam để “tham gia” MTDT/GPMN. Đồng thời, thành lập Thanh niên Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam.( 83)

Vậy mà chiều ngày 2/9, Nhu vẫn còn tiên đoán một cách lạc quan rằng trong tương lai BV phải tiếp tế bằng không quân. Tiếp vận đường biển đã bị ngăn cản, và đường bộ cũng hầu như bất khả. Nếu tiếp tế bằng phi cơ, sẽ bị phòng không bắn hạ.( 84)

 

6. Lo sợ bị đảo chính:

Trong khi đó, giới quân đội ngày thêm bất mãn. Cuộc đảo chính hụt 11/11/1960 hay cuộc đánh bom Dinh Độc Lập ngày 27/2/1962 chỉ là những dấu hiệu mặt nổi của sự bất mãn sâu xa, tiềm ẩn này. Một số tướng và sĩ quan cao cấp như Dương Văn “Big” Minh, Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm, Phạm Văn Đổng lúc nào cũng chờ cơ hội làm đảo chính. Đó là chưa kể những Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Văn Trọng, Trần Kim Tuyến, Huỳnh Văn Lang, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, v.. v...

Không chỉ có giới quân đội bất mãn. Các tầng lớp trí thức và thị dân ngày càng thất vọng với họ Ngô.

Không kém nguy hiểm là chính sách giáo phiệt. Những phần tử không Ki-tô ngày thêm chống đối. Từ năm 1956, Đại sứ/Cao ủy Pháp, Henri Hoppenot, đã nêu lên vấn đề hiềm khích giữa Phật Giáo và Ki-tô giáo, cũng như sự tranh chấp trong nội bộ Ki-tô giáo, nhất là giữa phe phù Ngô Đình Thục và phe di cư. Từ cuối năm 1954, Đặc sứ Collins, một tín đồ Ki-tô Roma, đã báo cáo về Oat-shinh-tân là ngày 11/12/1954, Giám Mục Lê Hữu Từ than phiền về sự thất bại của chế độ Diệm. Theo Từ, ngày Diệm mới lên cầm quyền, một niềm hy vọng lan rộng trong mọi tầng lớp dân chúng. Nhưng niềm hy vọng đó đã giảm mất một nửa [50%], và sự bất mãn ngày thêm gia tăng. Diệm có đầu óc độc tài và tìm đủ cách đốn hạ bất cứ ai có tài năng. Diệm còn thiếu cương quyết, và vây bọc bởi những cố vấn xấu, phần lớn là phần tử trong gia đình. (85)

Đại đa số nông dân, những người cày sâu, cuốc bẫm, hai sương một nắng, cũng ngừng ủng hộ. Từ năm 1957, họ phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Là nạn nhân của Việt Cộng ban đêm, ban ngày họ trở thành nạn nhân của cường hào, ác bá, cùng các tệ nạn Tố Cộng, Diệt Cộng, rồi đến những kế hoạch Khu trù mật, doanh điền, ấp tân sinh, v.. v... Chính phủ Diệm có phần hữu lý khi nhận định rằng nông dân đã phải ngả theo Cộng Sản vì sợ hãi cái gọi là “bạo lực cách mạng.” Nhưng không chỉ có một yếu tố này. Một trong những lý do trực tiếp là chính phủ và quân đội thiếu khả năng hay phương tiện duy trì an ninh và bảo vệ dân chúng, kể cả những gia đình bị dồn vào Khu trù mật hay Ấp chiến lược. Không thiếu viên chức lợi dụng các kế hoạch quốc sách này để thu đoạt tư lợi.( 86)

Nhưng thay vì phân tích rõ ràng tình hình và tái duyệt quốc sách của mình, cũng như vấn đề nhân sự và thực hiện, để kịp thời đối phó, Diệm-Nhu trút trách nhiệm mọi thất bại cho sự thiếu ủng hộ của Mỹ, và còn nghi ngờ rằng chính người Mỹ đã “bật đèn xanh” cho phe chống đối. Từ đó, nảy sinh ra sự căng thẳng liên hệ Mỹ-Việt, và cuộc đương đầu khó tránh.

 

7. Kế hoạch gài bẫy của Bắc Việt:

Đáng ngại hơn nữa, và đây là thảm kịch của họ Ngô nói riêng, toàn dân quân miền Nam nói chung, qua kế hoạch “chiêu hồi,” anh em Diệm bị lôi cuốn dần vào cái bẫy sập “hòa bình, thống nhất, trung lập” của Hà Nội.

 

a. Độc lập, thống nhất, trung lập

Từ ngày ký Hiệp ước Geneva 20-21/7/1954, Hà Nội luôn luôn nêu ra lập trường thống nhất đất nước theo tinh thần Hiệp định Pháp-VNDCCH nói trên. Cả Nga Sô và Trung Cộng cũng thường khuyên nhủ Hà Nội chỉ nên tạm thời tìm cách vận động hòa bình trong khuôn khổ Hiệp ước Geneva. (Xem infra) Nhờ vậy, chính phủ Diệm được tạm thời yên ổn trong 4, 5 năm đầu.

Từ đầu năm 1959, Đảng LĐVN quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Một mặt, qui tụ những thành phần chống đối ở miền Nam thành một cánh tay ngoại vi, tức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam [MTDT/GPMN], do cán bộ CS cầm đầu. Mặt khác, xâm nhập cán bộ hồi kết vào miền Nam (“B”), tái thiết lập Trung Ương Cục Miền Nam (1961), dưới danh hiệu Đảng Nhân Dân Cách Mạng miền Nam Việt Nam [NDCM/NVN], và tổ chức cùng hệ thống hóa các lực lượng võ trang thành những đơn vị lên tới cấp tiểu đoàn, trung đoàn.

Tuy nhiên, kế hoạch đánh chiếm miền Nam của Hà Nội gặp nhiều trở ngại. Cả Mat-scơ-va lẫn Bắc Kinh, trong mối lo ngại Mỹ sẽ can thiệp (tức đưa quân chiến đấu) vào Nam Việt Nam, cố vấn Hồ và Đảng LĐVN chỉ nên tranh đấu chính trị trong khuôn khổ Hiệp ước Geneva. Nhưng sau ngày Nikita S. Khrushchev hạ bệ Stalin, liên hệ giữa Mat-scơ-va và Bắc Kinh ngày một xấu đi. Bắc Kinh lên án Khrushchev là bọn “xét lại,” trong khi Mat-scơ-va gọi Mao là bọn “giáo điều.” Mặc dù Hồ tìm cách hòa giải hai đàn anh, Bắc Kinh áp lực Hà Nội phải ngả về phe mình. Để mua chuộc Hà Nội, Bắc Kinh gia tăng viện trợ cho kế hoạch đánh chiếm miền Nam của Đảng LĐVN. Mao Nhuận Chi và Đảng CSTH cũng nhìn nhận ngay mặt trận ma MTDT/GPMN–dù có liên hệ đến tàn dư các lực lượng giáo phái và thân Pháp–được Bộ Chính Trị Đảng LĐVN chính thức cho ra công khai trong dịp đảo chính hụt của Nhảy Dù và TQLC ngày 11/11/1960. Nhiều phái đoàn quân sự Trung Cộng tới phía bắc vĩ tuyến 17 để tham quan và giúp Bộ Tổng Tham Mưu QĐNDVN thiết lập kế hoạch phòng thủ. Trần Canh, người từng chỉ huy trận Lê Hồng Phong II vào tháng 9-10/1950 cho Võ Giáp đứng ra nhận chiến công, cũng trở lại Việt Nam thăm Hồ. Không kém quan trọng là guồng máy tuyên truyền của Bắc Kinh trong nỗ lực biến MTDT/GPMN thành một thực thể chính trị, có quân đội và chính quyền ở miền nam Việt Nam.

Ngày 1/1/1962, Hồ lại chính thức đề nghị thống nhất, hòa bình trong khuôn khổ Hiệp định Geneva. Hồ mong mỏi hai miền Bắc và Nam sẽ thương thuyết “để hòa bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ [Geneva, 20-21/7/1954] qui định.”( 87) Vì thế, có tin Hồ đã gửi cho Diệm một chậu đào “vui Xuân” Nhâm Dần (1962)–chậu đào rồi sẽ tưới bằng máu họ Ngô.( 88)

Ngày 28/3/1962, Nhân Dân đăng bài phỏng vấn HCM của báo Daily Telegraphs. Hồ đề nghị bình thường hoá ngoại giao giữa hai miền về mặt văn hoá và kinh tế, về việc đi lại và thư tín giữa hai miền v... v... Ngoài ra, còn những lời tuyên bố và bài viết của Thiếu tướng Nguyễn Văn Vịnh,(89) rồi đến buổi gặp bí mật giữa Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm và Harriman tại Geneva, nhân dịp ký Hiệp ước 1962 về Lào, qua trung gian Burma.( 90)

Ngày 19/4/1962, Phát ngôn viên BNG Bắc Việt cũng nhắc đến công hàm ngày 16/4/1962 của Bri-tên gửi Mat-scơ-va. Hàm ý tán thành một hội nghị quốc tế về Việt Nam.( 91)

Trong năm 1962, Lê Duẩn cũng chỉ thị cho miền Nam thành lập một chế độ trung lập, hòa giải hòa hợp.( 92) Bởi thế ngày 10/8/1962, MTDT/GPMN công bố lập trường trung lập, thống nhất trong hòa bình, gồm 14 điểm: tức trung lập chống Mỹ.( 93)

Vào tháng 5/1963, trong bài phỏng vấn của Alfred Burchett trên tờ báo chuyên về ngoại giao của Liên Sô Nga bằng Anh ngữ, New Times [Tân Thời Báo], Hồ còn lập lại đề nghị này. Bài này có lẽ được trích đăng trên các tờ tuần báo Người bảo vệ Dân tộc và tuần báo Cách mạng Châu Phi tại Algeria, và báo Nhân Dân ngày 8/8/1963.( 94)

Lập trường “trung lập” của Đảng LĐVN được một số người lưu vong ở Pháp và Miên (Trần Văn Hữu, Hồ Thông Minh, Lê Văn Trường, Trần Đình Lan, v.. v...) hưởng ứng, với sự tiếp sức, trực hay gián tiếp, của những nhân vật có quyền lực ở Pháp.( 95)

 

b. Mỹ triệt thoái:

Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cũng như MTDT/GPMN không ngớt nêu ra điều kiện Mỹ không được can thiệp vào nội tình chính trị miền Nam. Điều này có nghĩa Mỹ phải triệt thoái khỏi miền Nam. Đây cũng là mục tiêu tối hậu của Trung Cộng, mà ảnh hưởng ngày càng gia tăng ở phía Bắc vĩ tuyến 17.

Cho tới nay, vẫn chưa đủ tài liệu khả tín để giải thích lý do anh em Diệm-Nhu công khai bài Mỹ và đặt vấn đề Mỹ giảm quân từ đầu năm 1963,

Như đã lược nhắc, ngày Thứ Sáu, 12/4/1963, khi tiếp chuyện một viên chức CIA ở Sài Gòn Nhu đã nêu lên vấn đề rút bớt quân số Mỹ. Ngày 22/4/1963, cơ quan CIA ghi nhận có những dấu hiệu cho thấy Diệm-Nhu muốn giảm lính Mỹ ở Nam Việt Nam vì vi phạm chủ quyền của Việt Nam [infringements” of Vietnamese sovereignty], đặc biệt là Lực lượng đặc biệt Mỹ.( 96) Ngày Chủ Nhật, 12/5/1963, Warren Unna tường thuật trên báo Washington Post, rằng Nhu muốn quân Mỹ sẽ giảm xuống một nửa. (97)

Điều đáng ngạc nhiên là ngày 23/5/1963, Diệm không hề thảo luận với Lalouette vấn đề giảm quân Mỹ khi Lalouette vào chào Diệm để về Pháp nghỉ. Nhưng cuối tháng 8/1963, sau khi từ Pháp trở lại nhiệm sở và gần gũi với Nhu trong cuộc tấn công chùa chiền đêm 20-21/8/1963, Lalouette khuyên Lodge nên tiếp tục yểm trợ Diệm-Nhu, mặc dù Nhu có khả năng thương thuyết với Hà Nội, và điều kiện cho một giải pháp chính trị là sự triệt thoái của quân Mỹ. Bởi thế, ngày 4/9/1963, Lodge lại báo cáo rằng Nhu có thể dàn xếp một thỏa hiệp với VC để ngừng chiến tranh, và một trong những điều kiện [quid pro quo= consideration] là “Triệt thoái một số lính Mỹ.”( 98)

 

c. Thành lập chính phủ liên hiệp:

Trong số những mục tiêu giai đoạn của CSBV là thành lập một chính phủ liên hiệp ở miền Nam. Thư của Lê Duẩn gửi Nguyễn Văn Linh năm 1962 là một bằng chứng. Trong những cuộc phỏng vấn dành cho Burchett độc quyền năm 1963, đích thân Hồ–mà quyền lực thực sự đã bị mất dần vào tay Lê Duẩn–không ngớt lập lại những điều kiện để đi tới hòa bình, “thu xếp một cuộc ngừng bắn giữa quân đội Ngô Đình Diệm và các lực lượng vũ trang của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam,” là triệt thoái quân Mỹ, thành lập một chính phủ “triệt để tôn trọng Hiệp nghị Giơ-neo-vơ, cam kết không tham gia bất cứ khối quân sự nào, và không cho phép nước ngoài lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình.”( 99)

Tuy nhiên, ngày 28/8/1963, Hồ đột ngột thay đổi thái độ; lên án việc đàn áp Phật Giáo là “tội ác dã man của chúng trời đất không thể dung.” Hồ còn trở lại với thứ luận điệu hiếu chiến quen thuộc, gọi chính phủ Diệm bằng những lời nặng nề như “bè lũ” đã “gây những tội ác tày trời, là vì có quan thầy ủng hộ,” “bọn Ngô Đình Diệm buôn dân, bán nước.”( 100)

Lời khen ngợi Diệm là “a patriot” [người ái quốc] mà Maneli gợi nhớ hoặc đã chuyển cho Nhu ngày 2/9/1963, khó có vẻ gần gũi với tiếng “buôn dân, bán nước” đã công bố bốn ngày trước trên báo Nhân Dân và đài phát thanh Hà Nội. Phải chăng ngay chính Maneli cũng biến thành một người đưa tin bị Hồ và Đảng LĐVN đưa vào cuộc chơi “tiến công ngoại giao” ác nghiệt?

Có lẽ vì vậy, chính phủ Poland cho lệnh Maneli chấm dứt ngay mọi liên hệ với Nhu. Đồng thời, phản ứng của khối CS với lời tuyên cáo của de Gaulle ngày 29/8/1963 thật lãnh đạm. Chỉ có một đại diện của Hà Nội ở Algers trình bày ý kiến riêng rằng tuyên ngôn của de Gaulle “positive” [tích cực]. Trước áp lực Mỹ, BNG Pháp phải trở lại với lập trường “không can thiệp vào nội tình chính trị Việt Nam” quen thuộc. [Xem infra]

Nếu quả thực những đề nghị trở lại với Hiệp ước Geneva và triệt thoái quân Mỹ là nhắm vào một giải pháp chính trị cho miền Nam, hẳn phản ứng của Hồ với sự ve vãn của Nhu hay lời tuyên bố của de Gaulle đã khác. Cho đến khi có tài liệu chứng minh ngược lại, cuộc “tấn công hòa bình” của Hồ và Đảng LĐVN có lẽ chẳng nhắm mục đích nào khác hơn khoét sâu sự nghi kỵ giữa Mỹ và họ Ngô. Nhưng Nhu, trong cơn mê sảng vì bị loại khỏi quyền lực, không nhận hiểu được điều này.

 

Phụ chú:

1. William Henderson and Wesley R. Fishel, “The Foreign Policy of Ngo Dinh Diem,” Vietnam Perspective (Aug 1966), tr. 17-8; Mieczylslaw Maneli, War of the Vanquished [Cuộc chiến của những kẻ bại] (New York: 1971), tr. 148-50; David Kaiser, American Tragedy: Kennedy, Johnson, and the Origins of the Vietnam War (Cambridge, Mass: Belknap Press, 2000), tr. 256-57. Thực ra, từ năm 1954-1955, viên chức Pháp đã nêu lên với Ngoại trưởng Mỹ bản chất “illogical” của Diệm về Hiệp ước Geneva: Diệm phủ nhận Hiệp ước đình chiến giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa này, trong khi vui hưởng việc cai trị miền Nam, do Hiệp định trên tạo ra. Rồi, từ cuối thập niên 1950, không ngừng tố cáo CSBV đã “xâm lăng miền Nam.”

2. George McT Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knof, 1986), tr. 58.

3. Kahin, Intervention, tr. 153-55; Fredrik Logwall, Choosing War: The Last Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam (Berkeley: Univ of California Press, 1999), tr. 7-8; Francis X. Winters, The Year of the Hare: America in Vietnam, January 25, 1963-February 15, 1964 (Athens: Univ. of Georgia Press, 1997), tr. 43-4.

4. Độc giả Đi Tới và Hợp Lưu cũng đã có dịp đọc qua bài “Cái chết của một hàng tướng: Dương Văn Minh (1916-2001),” trước khi bài này in trong Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn Hóa, 2002).

5. Frederick Nolting, From Trust to Tragedy: The Political Memoirs of Frederick Nolting, Kennedy’s Ambassador to Diem’s Vietnam (New York: Prager Publishers, 1988), tr, 117-18; Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Van Hoa, 1997), tr. 51.

6. Nguyễn Văn Châu, Ngô Đình Diệm: Nỗ lực hòa bình dang dở, bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vi Khanh (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1988), tr. 161-64. Trung tá Châu–một cựu Quân ủy trung ương của Đảng Cần Lao, trước khi nắm Nha Chiến tranh Tâm lý, và rồi đưa qua Oat-shinh-tân làm tùy viên quân sự vào tháng 9/1962–thời gian này có mặt ở Sài Gòn, nhưng không nêu tên nhân chứng. Đây là một nỗ lực vụng về để chạy tội “phản bội và âm mưu phản bội” của họ Ngô.

7. Ellen Hammer, A Death in November (NY: Oxford Univ Press, 1987), tr. 268-70; Winters, Year of the Hare, tr. 99; Seymour M. Hersh, The Dark Side of Camelot (Boston: Little, Brown, 1997), tr. 433-34; Philip E. Catton, Diem’s Final Failure (Lawrence, Kansas: Press of Univ. of Kansas, 2002), tr. 195.

8. Maneli, 1971:137-39. Từ cuối tháng 8/1963, tình báo Mỹ đã biết tin về kế hoạch của Maneli; Foreign Relations of the United States [Bang giao quốc tế của Liên bang Mỹ], 1961-1963, IV:89-90. Se dẫn: FRUS, 1961-1963. Sau ngày 1/11/1963, Bộ trưởng Nội Vụ Tôn Thất Đính cũng tiết lộ trong một buổi họp báo việc Nhu liên lạc với Hà Nội, qua trung gian Maneli; Maneli 1971:112-14. Những lời chứng trong sách của Maneli ấn hành tại Mỹ, tưởng cần nhấn mạnh, chỉ là một thứ truyền khẩu sử, hay dã sử; cần được phối kiểm với các tài liệu văn khố khác.

9. Maneli, 1971:140-47; FRUS, 1961-1963, IV:89 [một nhân chứng đã cho CIA biết tin Maneli gặp Nhu từ tối ngày 30/8/1963]; Tel 403, 2 Sept 1963, Lodge gửi BNG; Ibid., IV:84-5 [TL 44]

10. CĐ 403, ngày 2/9/1963, Lodge gửi BNG; Ibid., IV:85.

11. CĐ CIA ngày 2/9/1963; Ibid., IV:89-90.

12. CĐ 0689, CAS gửi CIA; Ibid., IV:125-26.

13. Ibid., IV:239-40.

14. Nolting, From Trust to Tragedy, 1988:117-18.

15.Thư ngày 25/5/1963, Trueheart gửi Hilsman; FRUS, 1961-1963, III:327-30. Theo Trueheart, Nhu đã cung cấp loại tin vô căn cứ này nhiều lần. [Nó cũng chứng minh tình báo của Nhu thường đi ngược lại sự thực]

16. CĐ 403, ngày 2/9/1963, Lodge gửi BNG; Ibid., IV:85.

17. Xem Chính Đạo, VNNB, 1939-1975, tập I-D: 1964-1968 (đang in).

18. William Colby, Lost Victory, 1989:102-3. Trong cuốn Our Endless War in năm 1987, Đôn không nhắc đến chi tiết này. Ấn bản tiếng Việt của tập hồi ký trên ghi rằng Nhu được Trung tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy, đưa đến gặp Phạm Hùng và hai người khác. Nhu hứa với Phạm Hùng là sẽ cho Lệ Xuân và Lệ Thủy ngồi lên chuyến xe lửa thống nhất đầu tiên ra Hà Nội (tr. 183). Tướng Đôn, tưởng cũng nên ghi nhận, là một trong những “nguồn tin đáng tin cậy” của các viên chức Mỹ. Một trong những lý do là Đôn từng được OSS huấn luyện vào mùa Hè 1945, rồi gửi trở lại nội địa lấy tin tức về quân Nhật. Đôn rất thân thiết với Lucien “Lou” Conein và Edward Lansdale.

19. Colby dùng từ “apocryphal” [sự phóng đại], khi phê bình lời nhận xét của Phạm Hùng về Ấp chiến lược do người bạn [Đôn hay Khiêm?] thuật lại, mà không nhắm vào bản tin về buổi gặp mặt giữa Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng; Colby 1989:102-3.

19b. Phỏng vấn tại Sài Gòn, Việt Nam, tháng 4/2005. Nhưng cũng có tin nhật ký của Lê Duẩn chứa đựng những thông tin về các đầu mối tình báo chiến lược

20. Châu, 1988:162-163.

21. Chẳng hiểu do ngẫu nhiên hay vì một lý do nào cả Châu và Dĩnh, hai cán bộ Cần Lao cao cấp, đều có mặt ở Sài Gòn vào những ngày cuối của chế độ Diệm.

22. Báo cáo ngày 29/5/1963, Lalouette gửi BNG; CLV, SV, d. 18.

23. Xem Đoạn II, infra.

24. FRUS, 1961-1963, IV:89-90.

25. Ibid. [FRUS, 1961-1963, IV:89-90].

26. Nguyên văn: “He said he is adamantly opposed to neutralism, ... Neutralism, according to Nhu, is completely contrary to GVN’s outlook and policy.” FRUS, 1961-1963, IV:126.

27. Tính đến ngày 9/1/1962, quân Mỹ ở Nam Việt Nam tăng hơn 100%: Từ 948 người vào cuối tháng 11/1961 lên 2,646 người ngày 9/1/1962 và dự trù sẽ lên 5,576 vào cuối tháng 6/1962. Ngày 30/1/1963, Tướng Earle Wheeler báo cáo Mỹ đã có hơn 400 cố vấn cấp Tiểu đoàn và tương đương; trên 100 cố vấn tỉnh; 220 người trong ngành an ninh tại NVN. Gần 300 phi cơ đã hoạt động, gồm 148 trực thăng vận tải, 11 trực thăng võ trang, 81 vận tải có cánh, 13 khu trục (chiến đấu cơ), 9 oanh tạc cơ hạng nhẹ, 4 thám thính chiến đấu, 37 liên lạc. Về quân đội VNCH, có 196,357 Bộ binh, 6,595 Hải quân, 5,817 Không quân, 5,281 TQLC, 75,909 ĐPQ, 95,828 Dân vệ; FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 26.

28. FRUS, 1961-1963, III:222-25.

29. FRUS, 1961-1963, III:246-47.

30. Việt Nam cũng hứa sẽ đóng góp 2.3 tỉ đồng; FRUS, 1961-1963, III:307-8,309n3.

31. FRUS, 1961-1963, III:309.

32. FRUS, 1961-1963, III:317-21.

33. Báo cáo ngày 29/5/1963; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 91:137-143; CĐ ngày 31/5/1963; Ibid., d. 91:144-147.

34. CĐ 652, ngày 7/10/63, Lodge gửi McNamara; FRUS, 1961-1963, IV:386. (Nên lưu ý là lời tuyên bố này xảy ra sau khi Lodge áp lực Nhu phải rời nước).

35. Tới cuối năm 1949, HCM vẫn giữ kín liên hệ với QTCS; tự nhận là “người quốc gia.” Phía sau hậu trường, từ năm 1945-1946, Hồ đã nối lại liên lạc với CSTH tại vùng Quảng Tây-Quảng Đông. Hồ còn đồng ý cho Trung đoàn 1 của Quân khu Quảng Đông hoạt động trong lãnh thổ Việt Bắc từ tháng 3/1946. Đơn vị của Đồng chí “Lộc” [Huang Jingwen] này còn huấn luyện cho các binh sĩ Việt Minh, cũng như tổ chức các đơn vị võ trang người Việt gốc Hoa. Zhai 2000:11-12.

36. Xem Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, I-C: 1955-1963, 2000:198-203.

37. FRUS, 1961-1963, II:779-787.

38. Báo cáo ngày 2/3/1963, Lalouette gửi BNG; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 17. Xem thêm bài phỏng vấn trên báo US News & World Report.

39. Đính 1998, tr. 270-272.

40. FRUS, 1961-1963, III:225. Ngày 16/4/1963, khi vào gặp Diệm để thông báo sắp về Mỹ nghỉ, Nolting than phiền về những lời tuyên bố của Lệ Xuân. Diệm hứa sẽ không còn tái diễn nữa.

41. FRUS, 1961-1963, IV:175.

42. Xem, thư Diệm gửi U Thant ngày 5/9/1963; United Nations, General Assembly, Official Records, Agenda Item 77, và lời khai của Nhu cùng các viên chức khác trong Ibid., Doc. A/5630, 7/12/1963; Xem thêm Chính Đạo, “Mùa Phật đản đẫm máu;” đã phổ biến trong Đi Tới (Canada), số 75-76, tháng 12/2003; website Chuyển Luân (Australia), tháng 12/2003, Hợp Lưu và Việt Nam Văn Hiến. (ấn bản 2010).

43. VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 203.

44. Ngày 24/1/1962, Diệm trả đũa bằng cách cho Fishel biết sẽ chấm dứt giao kèo với nhóm chuyên viên MSU. Fishel nghĩ rằng giọng nói là của Diệm, nhưng lối lý luận là của Nhu [The voice was that of the President, but the reasoning was that of his brother, Nhu]. Thư ngày 17/2/1962, Fishel gửi Hannah; FRUS, 1961-1963, II:148-52.

45. FRUS, 1958-1960, I:568-69.

46. Xem David Halberstam, The Making of A Quagmire (New York: Random House, 1965; Neil Sheehan, The Bright Shining Lie (New York: Vintage Books, 1988), tr. 269-371.

47. FRUS, 1961-1963, III:500-4. [“It was his firm convicton that the Government of Vietnam was being oppressed by the US press rather than the American correspondents being oppressed by the Vietnamese government;”]

48. FRUS, 1961-1963, I:1961, tr. 411-16. 48; Tels 20, 6/7/1962, và 28, 9/7/1962, BNG gửi Sài Gòn; & Tel 35, 10/7/1962, Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1961-1963, II:1962, tr. 497-98 [TL 234], 511-13 [TL 238] và 514-15 [TL 239]. Về phía QTCS, Kremli chống lại việc gây chiến ở Lào và Việt Nam do Hà Nội đề xướng, với sự chấp thuận của Mao, nên có lẽ “phe ta” không ngồi lại được với nhau như Lê Duẩn sau này nhận xét..

 

49. CIA Information report ngày 2/9/1963; FRUS, 1961-1963, IV:91. Tưởng cũng nên ghi nhận sự hòa hoãn Mỹ-Nga này, theo tài liệu Trung Cộng, khiến Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nghiêng hẳn về phía “giáo điều” của Bắc Kinh, và xa gần đả kích chủ nghĩa “xét lại” của Nga. Ngày 30/1/1964, L6 Duẩn tuyên bố ở Bắc Kinh là sẽ không có thong cáo chung sau chuyến thăm Mat-scơ-va của Duẩn.

50. CĐ số 1250 gửi Sài Gòn, DOS, Central Files, PER-Lodge, Henry Cabot; CĐ số 1230 từ Sài Gòn; FRUS, 1961-1963, III:414. Theo Thuần, Diệm sẽ trở nên cứng đầu hơn. Truheart nói không biết Lodge đã nhận được những chỉ thị gì, nhưng cách tốt nhất để tránh đương đầu với Mỹ là chính phủ Diệm nên bắt đầu thay đổi cách làm việc.( Ibid)

 

51. Thư ngày 17/2/1962, Fishel gửi Hannah; FRUS, 1961-1963, II:149. Theo Fishel, một Bộ trưởng (Huỳnh Hữu Nghĩa) đã cải đạo; (Ibid, II:46) và nhiều sĩ quan cũng cải đạo để mong được thăng cấp. (Ibid., II:56, 45)

52. Báo cáo ngày 18/12/1962, FRUS, 1961-1963, II:779-84; Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 239-40, 268-69. Báo cáo này đã nạp cho Bạch Cung ngày 26/12/1962; nhưng chỉ được phổ biến ngày 25/2/1963. Xem thêm Báo cáo ngày 2/3/1963 của Đại sứ Herve Alphand; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 17, và báo cáo ngày 2/3/1963 của Lalouette; Ibid. (Dư luận là liên hệ giữa Mỹ và VN khó thể cải thiện. Hệ thống quân sự Mỹ, 5 ngành, 11 Tướng. Chiến tranh đưa vào các mật khu VC, Cà Mau và chiến khu D, nhưng các Tướng hoài nghi về một giải pháp quân sự). Chester L. Cooper, trong The Lost Crusade: America in Vietnam, nhận định: “Thus a bare five years after Diem’s assumption of power, his ‘miracle’ began to show stains of ugly reality; p. 165)

53. Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 203-6, 220; FRUS, 1961-1963, I:416-17,

54. FRUS, 1961-1963, II:596-601; Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 256-58. Những người có thể thay thế: (1) Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và Tướng Dương Văn Minh; (2) Tướng Lê Văn Kim và Dương Văn Minh; (3) Trần Quốc Bửu.

55. FRUS, 1961-1963, II:601-3.

56. Xem chú 50 supra.

57. Các viên chức Mỹ cho lối diễn tả này rằng nó là tuyên truyền của Cộng Sản. Thư ngày 4/4/1963, Wood gửi Nolting, III:205.

58. FRUS, 1961-1963, III:222-25.

59. FRUS, 1961-1963, IV:212-15.

60. Cooper, Lost Crusade, tr. 165-67.

61. FRUS, 1961-1963, III:501-2, IV:84-5.

62. Xem thêm việc tài trợ quĩ chống phản loạn; FRUS, 1961-1963, III:210-11.

63. Nguyên văn: “He is neither anti-American nor xenophobic . . . He is unpopular because he wants to promote a genuine revolution among the people and this annoyed the stand-patters;” Tel 1056, 23 May 1963, Nolting gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:324 [TL134].

64. CĐ 652, ngày 7/10/63, Lodge gửi McNamara; FRUS, 1961-1963, IV:386.

65. Nguyên văn: “We don’t need the Americans anymore even in the economic field, as we can confront our economic problems with our own resources.” Ibid.

66. Châu, 1988:164.

67. Durbrow đề nghị BNG Mỹ cho lệnh Durbrow bảo thẳng Diệm rằng nếu Diệm không thi hành kế hoạch chống phản loạn, sẽ tạm ngưng việc tăng gia 20,000 quân nhân VNCH.

68. Biên bản buổi nói chuyện ngày 26/1/1962 giữa [Diệm với Fowler Hamilton (USAID, Administrator), Arthur Z. Gardner (USOM director), và Henry Koren (Office of SEA Affairs, Director); FRUS, 1961-1963, II:41-4; 60-2.

69. Ibid., II:44.

70. Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, 1954-1963 (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 188; Châu, 1988:109.

71. Thêm, Những ngày chưa quên, 1989:188. Nhu nhiều hơn một lần thố lộ: “Một thằng [Pháp] rất hiểu mình thì chỉ tính xỏ mình, một thằng [Mỹ] muốn giúp mình thì chẳng hiểu mô tê gì cả.” Châu, 1988:109. Tôi chưa tham khảo bản Pháp ngữ của Trung tá Châu, chẳng hiểu tác giả dùng danh từ nào để dịch thành “thằng” trong bản Việt ngữ.

72. Tuy nhiên, Nhu học thuộc lòng bài học Machiavelli: Không ngại ngần khẳng định lòng trung thành với Mỹ, dù chỉ đầu môi chót lưỡi, để đạt mục tiêu. Ngày 2/9/1963, chẳng hạn, Nhu từng tâm sự với Đại sứ Lodge là từng bảo sứ giả của Hà Nội rằng Nhu luôn luôn trung thành với Mỹ nên không thèm chú ý đến những lời tuyên bố của Hồ Chí Minh hay de Gaulle; FRUS, 1961-1963, IV:85. Bốn ngày sau, 6/9, Nhu còn khẳng định không thể làm một việc vô đạo đức như móc nối với Hà Nội sau lưng người Mỹ; Ibid., IV:125.

73. Có tất cả 7 cuộc tự thiêu vì đạo pháp của tăng ni. Thượng tọa Quảng Đức (11/6/1963, Sài Gòn), Đại đức Nguyên Hương (4/8/1963, Phan Thiết), Đại đức Thanh Tuệ (13/8/1963, Huế), Ni cô Diệu Quang (15/8/1963, Ninh Hòa), Thượng tọa Tiêu Diêu (16/8/1963, Huế), Đại đức Quảng Hương (5/10/1963, Sài Gòn), và Đại đức Thiện Mỹ (27/10/1963, Sài Gòn); Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa, 1994), tr. 334-335. Ngoài ra, còn một Phật tử, Thương phế binh Hồng Thể (29/9/1963, Vũng Tàu). Xem thêm Thích Thiện Hoa, 50 Năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tr. 144-62. Tiếng “nhà chứa” mà Diệm dùng có lẽ đề cập đến hiện tượng “tân tăng” ở miền Nam Việt Nam–những người vừa muốn làm tu sĩ, vừa muốn hưởng thụ mọi lạc thú thế tục như sinh lý, ăn mặn, và trợ cấp Mỹ.

74. Xem những lời tâm sự của Diệm với Lalouette vào tháng 5/1963; nhận xét của Hilsman, FRUS, 1961-1963, III:189-92, hay Thompson; Ibid., III:193-95.

75. CĐ 384, Saigon, 30/8/1963, Lodge gửi Rusk; FRUS, 1961-1963, IV:58-9; Vũ Ngự Chiêu, “Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946;” Part III: “The Brutality of World Politics,” chương XII-XIV; Ph.D. Dissertation, 1984, UW-Madison.

76. Nguyên văn: “Neither the GVN nor any other government could possibly negotiate with Hanoi either openly or secretly, except after having won guerrilla war and not in terms of neutralization but rather within framework of strong SVN seeking to incorporate North Vietnam within free world order;” FRUS, 1961-1963, IV:126.

77. FRUS, 1961-1963, III:256-257.

78. FRUS, 1961-1963, IV:323.

79. Xem, chẳng hạn, chiến dịch “Hòa Bình” tại Củ Chi từ 21 tới 25/1/1962; FRUS, 1961-1963, II:99-101.

80. Trần Văn Trà 1993:165ff.

81. Chính Đạo, 55 Ngày & 55 Đêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, in lần thứ 5, có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1999), tr. 55.

82. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 253. Tài liệu chính thức của Việt Nam ghi nhận ngày 2/9, đã hoàn thành 8,227 trong số 10,592 ấp dự trù. 76% dân chúng, tức 9,563,370 người, đã vào ở trong các ấp chiến lược; Memorandum của Maxwell D. Taylor; Ibid., IV:99. Giống như hầu hết các quốc sách khác, Ấp chiến lược phần lớn chỉ có hình thức mà thiếu thực chất.

83. Ngày 18/1/1962, đài phát thanh Hà Nội loan tin thành lập Đảng Cách Mạng Nhân Dân miền Nam; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 91, tr. 35.

84. FRUS, 1961-1963, IV:126.

85. Báo cáo số 085/HC/2, ngày 28/7/1956, Hoppenot gửi Nha Á Châu-Đại dương; SLV, SV, 46:33-5; FRUS, 1952-1954, XIII, 2:2361-362.

86. Tại miền Tây, trong ba năm 1964-1967 người viết từng được nghe kể lại hàng trăm mẩu chuyện cười ra nước mắt về các “Khu trù mật” hay “Ấp chiến lược” dựng lên trong khoảng 48 giờ trước ngày Diệm đến thanh tra. Giữa năm 1966, vẫn còn cảnh một Thủ tướng bay tới một “ấp tân sinh” mới thành lập, phát heo giống cho thân nhân các viên chức tỉnh Chương Thiện, ngụy trang thành dân.ỳ Xem thêm Hilsman’s Research Paper on strategic concept of SVN, 2 Feb 1962; FRUS, 1961-1963, II:73-5.

87. Báo cáo số 41/AS, Lalouette gửi Couve de Murville; AMAE (Paris), CLV, SV, hộp 91; Nhân Dân, 1/1/1962; Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, 9:272.

88. Theo Tướng Đỗ Mậu, Diệm khoe chậu đào do bà con ngoài Bắc gửi tặng. Cựu Tổng Giám đốc Thanh Niên Cao Xuân Vỹ cho rằng Hồ gửi chậu đào vào dịp Tết Quí Mão, 1963.

89. Ngày 1/1/1962, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh tuyên bố rằng miền Nam chưa chuẩn bị tấn công ra Bắc. Ngày 18/4/1962, Đài phát thanh Hà Nội trích lời Dân biểu Vịnh (Chủ nhiệm Ủy Ban Thống nhất trung ương, Thứ trưởng Quốc Phòng) là nên tái triệu tập Hội nghị Geneva; CĐ 1330, ngày 20/4/1962, Đại sứ Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1961-1963, II:342.

90. FRUS, 1961-1963, II:543-44.

91. CĐ 1330, ngày 20/4/1962, Đại sứ Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1961-1963, II:343.

92. Thư vào Nam của Lê Duẩn về việc thành lập một chính phủ miền Nam liên hiệp, trung lập, và tuyên cáo 14 điểm của MT/GPMN ít lâu sau cho thấy có thể Hà Nội muốn thấy có một chính phủ miền Nam “trung lập” và “độc lập” với Mỹ. Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, khó thể nhìn những kế hoạch này ngoài “chiến tranh toàn diện” của Hà Nội–tức sử dụng mọi phương tiện để đạt chiến thắng cuối cùng; và, bước đầu tiên là ngăn chặn Mỹ đưa quân tác chiến vào miền Nam, uy hiếp cửa ngõ chiến lược Đông Nam của Trung Cộng.

93. Viện Sử học, Việt Nam: Những sự kiện, 1945-1986 (Hà Nội: NXBKHXH, 1990), tr. 222.

94. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9:1961-1964 (Hà Nội: 1978), tr. 533-40.

95. Xem, chẳng hạn, cuộc tiếp xúc điện thoại giữa viên chức ngoại giao Pháp và Trần Văn Hữu ngày 23/8/1963: “Diệm đang bị đánh đến chết. Còn phải chịu đựng thêm vài tháng. Chậm lắm là cuối năm sẽ có một chính phủ mới. Để lập nên một đội ngũ mới, cần kêu gọi những người đang bị bắt giữ hay đang lẩn trốn ở Việt Nam. Những nhân vật cần có trong tay phải được nắm giữ ngay, đặc biệt là những người đang ở Phi Châu. [Chú thích ghi là Lê Thành Khôi, một nhân vật tả phái cực đoan (dù rằng không Cộng Sản) hiện đang ở đang ở Madagascar cùng Sainteny]. Cuộc tranh đấu chống Cộng đã lỗi thời. Hai cường quốc Nga-Mỹ không thể bắt tay ngầm như ở Mat-scơ-va trong lúc đòi hỏi thuộc hạ (nguyên văn: bọn tí hon) tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng của họ.” CLV, SV, 18:61.

96. CIA Information Report, TDCSDB-3/654,285, 22/4/1963; JFKL, NSF, Vietnam Country Series, 4-5/63; FRUS, 1961-1963, III:246-247.

97. Lời tuyên bố của Nhu khiến các viên chức Mỹ cực kỳ quan tâm. Ngày Thứ Hai, 13/5, lúc 18G46 [07G46 14/5 Việt Nam], Ngoại trưởng Rusk chỉ thị cho Đại sứ Sài Gòn: Mỹ sẽ cắt giảm khoảng 1000 người vào cuối năm, nhưng tùy thuộc ở sự tiến triển tình hình an ninh. Nếu Diệm không muốn cắt giảm cố vấn Mỹ, nên ra tuyên cáo chính thức. Nếu Diệm đồng ý với Nhu, yêu cầu Diệm giải thích vị thế và ý định của Diệm; FRUS, 1961-1963, III:294-296. Hôm sau, 14/5, Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện chất vấn gay gắt Heinz và Hilsman về lời tuyên bốÔ của Nhu. Chính tờ Washington Post, trong phần xã luận, kêu gọi phải đặt lại vấn đề bang giao Mỹ-Việt. Ngày 20/5, Nolting mới báo cáo là Nhu tuyên bố rằng đã bị Unna trích dần sai lạc; FRUS, 1961-1963, III:309. Ba ngày sau, 23/5, Nhu lại cải chính rằng chỉ muốn phát động một cuộc cách mạng thực sự, để tiến dần đến tự túc. Đã bị hiểu lầm quá nhiều như bài Mỹ hay bài ngoại.

98. CĐ số 410, Saigon to Washington; JFKL, NSF, Country Vietnam, Vietnam State Cables; FRUS, 1961-1963, IV:111, n3.

99. Nhân Dân, 8/8/1963; Hồ Chí Minh toàn tập, 9:537-538.

100. Nhân Dân, 29/8/1963; dẫn trong Hồ Chí Minh toàn tập, 9:549-560. Tài liệu Việt Nam, Những sự kiện, 1945-1985, tr. 230 ghi là ngày 28/8/1963.


Chính Đạo

© 2004, 2010 by Chieu N. Vu. All Rights Reserved.

(XEM TIEP PHAN 2)

Ý kiến bạn đọc
01 Tháng Mười Một 20184:01 SA
Khách
Người công giáo Vn tự cho là chống cộng triệt để ủng hộ ông Diệm họ không dám đọc bài viết và tài liệu nầy .Họ đổ lôi mất Miền Nam là do mấy ông Thầy trong khối Ắn quang ,cầm đầu là ông Trí Quang ,đầu hàng là Ông DVM dâng miền nam cho CS sau khi làm TT 48 giờ ,đầu óc họ cho đến bây giờ vẫn khuôn mẩu cũ ,Là ông Diệm tài Đức trọn vẹn chống cộng hết mình ,Anh em ông Làm lể Dâng Nước Việt nam cho Bà Maria Do Thái ,trong khi đó giáo dân VN có 4 triệu người , Anh em ông Diệm coi đất Nước là của riêng mình không khác gì cộng sản Vn hôm nay , không biết những người hồi phục Tinh thần NĐD không biết họ hồi phục cái Tinh thần gì ? Quyền lực và danh vọng làm họ truất phế ông Bảo đại tịch biên tài sản cá nhân của mẹ ông Bảo đại , giết các cán bộ Đảng phái quốc gia ,giet luôn nhũng người ủng hộ và ân nhân của ông Diệm , bàn tay vấy máu của anh em ông Diệm nhận lấy quả báo nhãn tiền ,luôn cả các con ông Nhu sau nầy ở Pháp .Luật nhân quả không tránh con Chiên của Chúa , nên lấy đó làm gương ,Phong thánh cho Ông Diệm có ai đó đề nghị lên vatican nhưng đây là chuyện ruồi bu của đám gia nô Làm lể Trinh và bộ hạ của ông ta ,HCM và Anh em nhà Ngô Vĩnh viễn là tội đồ của Dân tộc ./
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
30 Tháng Tám 202012:15 SA(Xem: 19213)
Giai đoạn ngắn ngủi từ ngày 9-10/3/1945, khi Nhật chấm dứt chính quyền Bảo hộ Pháp tại Đông Dương bằng chiến dịch Meigo, tới ngày 21/8/1945, khi guồng máy quân sự Nhật bị sụp đổ là một trong những thời kỳ quan trọng trong lịch sử cận đại. Trong giai đoạn này, hai chính phủ “độc lập” ra đời, chấm dứt hơn tám mươi năm Pháp xâm chiếm, và kích động một cuộc cách mạng xã hội mà đặc điểm là hiện tượng Việt-Nam-Hóa [Vietnamization] tất cả các cấu trúc xã hội. (1)
04 Tháng Giêng 20205:40 CH(Xem: 18404)
Những tư liệu về thuở thiếu thời của Petrus Key đầy chi tiết trái ngược nhau. Năm 1958, Viên Đài & Nguyễn Đồng cho rằng thân phụ Trương Vĩnh Ký là “Lãnh binh Truơng Chánh Thi,” chết năm 1845 trong khi tùng sự ở Nam Vang (Bách Khoa [Saigon], số 40, [1/9/1958], tr. 43); năm 1846 mẹ (Nguyễn Thị Châu) ủy thác cho một giáo sĩ người Pháp có tên Việt là “cố Long” (tr. 44); năm 1847, Nguyễn Phước Thời (1847-1883), niên hiệu Tự Đức, lên ngôi, cấm đạo gắt gao phải chạy sang Cao Miên [Kampuchea]; năm 11 tuổi nói được 5 thứ tiếng (tr. 44); năm 1852 [sic] được cố Long hướng dẫn sang Đại chủng viện Penang, và ghé qua Sài Gòn gặp mẹ được vài giờ (tr. 44). Tại Penang học tiếng Anh, Nhật, Ấn (tr. 45). Năm 1858 mẹ chết, về Cái Mơn thọ tang. Ngày 28/12/1860 [sic], được Giám mục Dominique Lefèbvre giới thiệu “giúp việc cho Đại úy thủy quân” [sic] Jauréguiberry (tr. 45). Chữ “capitaine” của Pháp ở đây là hạm trưởng, không phải “đại úy” như quân chủng bộ binh.
24 Tháng Mười 20199:21 CH(Xem: 19553)
Hạnh phúc biết bao cho một người không có quá khứ, hay một dân tộc không có lịch sử—nhiều người quan niệm như thế. Nhưng con người, mỗi người trong chúng ta, đều có quá khứ, vui, buồn hay buồn vui trộn lẫn. Một dân tộc luôn luôn có lịch sử, vinh quang, tủi buồn, hay vinh nhục đủ mùi vị. Quá khứ luôn luôn là tấm gương cho mỗi người tự sửa mình, rút cho mình một kinh nghiệm sống, chuẩn bị cải thiện tương lai. Lịch sử một quốc gia, nếu được ghi chép trung thực, là kho tàng kinh nghiệm cho việc ích quốc, lợi dân, và phát huy tình nhân loại cho một thế giới đáng sống hơn.
20 Tháng Tám 20199:04 CH(Xem: 26994)
Petrus Key, sau này đổi thành Petrus Trương Vĩnh Ký, P.J.B. Trương Vĩnh Ký, Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, hay Petrus Ký, thường được coi như một văn hào của miền Nam dưới thời Pháp thuộc. Có người xưng tụng Petrus Key như “đại ái quốc,” “đại học giả,” “bác học,” thông thạo tới “26 thứ tiếng.” Dưới thời Pháp thuộc (1859-1945, 1949-1955), rồi Cộng Hòa Nam Kỳ Quốc (1/6/1946-15/5/1948), Quốc Gia Việt Nam (1/7/1949-26/10/1955), và Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1955-30/4/1975), người ta lấy tên Petrus Key (Ký) đặt cho trường trung học công lập [lycée] lớn nhất ở Sài Gòn, đúc tượng để ghi công lao, v.. v... danh nhân này. Với chương trình giáo dục tổng quát nhiều hạn chế (nhắm mục đích ngu dân [obscuranticisme] và ràng buộc trâu ngựa [cơ mi]),[1] được đặt tên cho trường công lập lớn nhất miền Nam là vinh dự không nhỏ; vì nơi đây chỉ có con ông cháu cha cùng những học sinh xuất sắc được thu nhận, qua các kỳ thi tuyển khó khăn.
28 Tháng Hai 20192:35 CH(Xem: 35924)
Việt Nam cổ thời chỉ được ghi phụ chép trong cổ sử Trung Hoa như các xứ man di phương Nam rồi Tây Nam từng đến xin cống lễ, hay liên quan đến chiến công xâm lược, thực và giá lẫn lộn, của các triều đại—dưới các chiêu bài giáo hóa, phép thờ nước lớn, và/hay chinh phạt. Lịch sử thành văn của Việt Nam thỉ chỉ xuất hiện từ đời Trần (10[20]/1/1226-23/3/1400)—tức Đại Việt Sử Ký (1272) của Bảng Nhãn Lê Văn Hưu (1230-1322)—nhưng đã tuyệt bản, chỉ còn những mảnh vụn sao chép và sửa đổi theo ý thích của các dòng họ cai trị mà Phó bảng Phan Chu Trinh từng chỉ trích là “hủ Nho” [ultra conservative confucianist].
08 Tháng Giêng 20192:06 CH(Xem: 25795)
Trung Hoa sau 30 năm tự cô lập hầu chấn chỉnh nội bộ, thiết lập một chế độ “Cộng Sản” theo kiểu mẫu Stalinist/Maoist—nhưng thực chất, hiểu và dịch sai thuật ngữ “communism” [công hữu] mà Karl Marx-Engels đã hoang tưởng về “xã hội công hữu nguyên thủy.” Thượng tuần tháng 2/1979, ghé Tokyo trên đường về nước, Tiểu Bình tuyên bố “Cần dạy cho Việt Nam [thân Nga, chống Tàu-Mỹ của Lê Duẩn-Phan Đình Khải] một bài học.”
30 Tháng Mười Một 20187:32 CH(Xem: 31774)
Pétrus Key (sau này trở thành Trương Vĩnh Ký) thường được ca ngợi là một học giả lớn miền Nam. Ông có công quảng bá loại tiếng Việt mới, tức quốc ngữ hiện nay mà các giáo sĩ Portugal và Espania đã sáng chế vào thế kỷ XVII. Tuy nhiên, Petrus Key cũng đóng một vai trò đáng kể trong cuộc xâm lăng Việt Nam của Pháp. Ông là một trong những thông ngôn người Việt đầu tiên hợp tác với Pháp, bên cạnh những giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo Hải Ngoại đã tiềm phục trong vương quốc Đại Nam từ nhiều thế kỷ.
22 Tháng Năm 20181:14 CH(Xem: 33078)
Hạnh phúc biết bao cho một người không có quá khứ, hay một dân tộc không có lịch sử—nhiều người quan niệm như thế. Nhưng con người, mỗi người trong chúng ta, đều có quá khứ, vui, buồn hay vui buồn trộn lẫn. Một dân tộc luôn luôn có lịch sử, vinh quang, tủi buồn, hay vinh nhục đủ mùi vị. Quá khứ luôn luôn là tấm gương cho mỗi người tự sửa mình, rút cho mình một kinh nghiệm sống, chuẩn bị cải thiện tương lai. Lịch sử một quốc gia, nếu được ghi chép trung thực, là kho tàng kinh nghiệm cho việc ích quốc, lợi dân, và phát huy tình nhân loại cho một thế giới đáng sống hơn.
28 Tháng Tư 20181:03 SA(Xem: 31627)
Từ ngày 7/3, khi Văn Tiến Dũng bắt đầu cô lập Ban Mê Thuột, tới ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, vừa chẵn 55 ngày. Thật khó ngỡ chỉ trong vòng 55 ngày và 55 đêm mà đạo quân hơn một triệu người—có hơn phần tư thế kỷ kinh nghiệm tác chiến, với những vũ khí khá hiện đại như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa—bị sụp đổ hoàn toàn. Cảnh tượng “bỏ của chạy lấy người” suốt tháng 3/1975 của các đơn vị Nam quân khiến đó đây vang lên những lời chỉ trích nặng nề như “hèn nhát,” “tồi dở” v.. v... Sự thảm bại ấy, thực ra, chỉ là đoạn kết bi phẫn ngắn ngủi khó tránh của một cuộc chiến kéo dài đã hơn 30 năm. Những hình ảnh điên loạn mà ống kính các phóng viên quốc tế thu nhận được chẳng khác cảnh vỡ đê trước con nước lũ, hay sự sụp đổ của một tòa lâu đài dựng trên bãi cát, khi nước triều dâng lên.
01 Tháng Tư 20184:43 CH(Xem: 26199)
Buổi tối ngày 2/1/1946, tại một biệt thự ở Neuilly, ngoại ô Paris, Tướng Charles de Gaulle đã cảm khái nói với con rể tương lai như sau: "Nước Pháp thật thiếu may mắn!" [Vraiement, la France n'a pas de chance!]" (1) 1. L'Institut Charles de Gaulle, Le général de Gaulle et l'Indochine, 1940-1946 (Paris: Plon, 1982) pp 180, 182, 200. [Sẽ dẫn: De Gaulle et l’Indochine, 1982]. Lời than thở trên đã được thốt ra vì một món quà năm mới mà Thủ tướng Lâm Thời Đệ Tứ Cộng Hòa Pháp chẳng hề trông đợi: Tám ngày trước, 26/12/1945, một tai nạn phi cơ giữa lòng rừng già Phi Châu đã phá hỏng kế hoạch bí mật mà De Gaulle và giới thân cận trù liệu từ nhiều tháng—Tiểu đoàn trưởng (Thiếu tá) Vĩnh San, lá bài chính của kế hoạch trên, có mặt trong số hành khách xấu số của chiếc phi cơ lâm nạn. (2)